Tại Kỳ họp lần thứ 33 Hội đồng Điều phối Quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB/ICC) diễn ra từ ngày 13 - 17/9/2021 tại Nigeria, hai Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa (Ninh Thuận) và Cao nguyên Kon Hà Nừng (Gia Lai) của Việt Nam đã được tổ chức UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Như vậy, trong giai đoạn 2000-2021, Việt Nam đã được công nhận 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới, trở thành quốc gia có số lượng khu dự trữ sinh quyển thế giới đứng thứ 2 Đông Nam Á, sau Indonesia (19 khu dự trữ sinh quyển).
Sự kiện hai khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa và Kon Hà Nừng của Việt Nam vừa được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới mang ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Sau 6 năm, nước ta lại có khu dự trữ sinh quyển thế giới mới được ghi danh (lần gần nhất là Langbiang, 2015) và sau 12 năm, nước ta mới lại có cùng một lúc 2 khu được ghi danh (sau hồ sơ Cù Lao Chàm và Mũi Cà Mau được ghi nhận năm 2009). Lần này, Việt Nam cũng là nước duy nhất có 2 hồ sơ được thông qua ngay từ vòng đầu tiên xét duyệt do hồ sơ của chúng ta bảo đảm tốt các tiêu chí đề ra.
Sự kiện này thể hiện sự ghi nhận của quốc tế đối với sự phát triển đa dạng, độc đáo về giá trị tự nhiên, sinh học, động thực vật, giá trị văn hóa của cộng đồng ở 2 khu dự trữ sinh quyển quốc gia này tại Việt Nam cũng như những nỗ lực của địa phương và người dân trong bảo tồn đa dạng sinh học bền vững. Việc được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới cũng tạo nhiều cơ hội để chúng ta được tiếp cận, áp dụng các sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm về quản lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển bền vững kinh tế xã hội, thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu...; đồng thời góp phần mở rộng mạng lưới khu dự trữ sinh quyển thế giới, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, thiên nhiên và văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc công nhận khu dự trữ sinh quyển thế giới này không đơn thuần chỉ là danh hiệu, mà tạo tiền đề để các địa phương xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bao trùm của địa phương mình, gắn kết hài hòa con người và thiên nhiên, kết hợp cân bằng giữa bảo tồn đa dạng sinh học gắn với phát triển kinh tế - xã hội và sinh kế của người dân, điều này càng đặc biệt quan trọng trong nỗ lực phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-19.
Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa sở hữu nhiều giá trị về đa dạng sinh học rừng, biển với các loài động, thực vật quý hiếm; cảnh quan thiên nhiên đa dạng mang những nét đặc trưng riêng của vùng khí hậu khô hạn ven biển của Ninh Thuận và khu vực Nam Trung bộ. Với diện tích trên 106.646 ha trong đó vùng lõi có diện tích trên 16.417 ha, vùng đệm trên 48.014 ha và vùng chuyển tiếp trên 42.131 ha, thực hiện ba chức năng gồm: bảo tồn; phát triển và hỗ trợ nghiên cứu; giáo dục và văn hóa.
Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa hiện có 1.511 loài thực vật, trong đó có 54 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ thế giới (IUCN). Hệ động vật cũng đa dạng với 765 loài được biết đến, trong đó có 46 loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ thế giới. Nhiều loài đang được ưu tiên bảo tồn như gấu ngựa, gấu chó, beo lửa, khỉ đuôi dài, khỉ đuôi lợn, sơn dương, nai, gà tiền mặt đỏ, rùa núi vàng... Đặc biệt, Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa có quần thể Voọc Chà Vá chân đen quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam đang được bảo tồn, phát triển.
Ngoài ra, vùng biển của Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa còn có rạn san hô rất phong phú với 350 loài, trong đó có 307 loài san hô cứng tạo rạn thuộc 59 giống, 15 họ, đặc biệt có 46 loài san hô mới được ghi nhận và phân loại tại Việt Nam. Đây còn là nơi có quần thể rùa biển đến sinh sản hàng năm đang được bảo vệ nghiêm ngặt.
Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa được các nhà khoa học đánh giá là nơi có khí hậu khắc nghiệt nhất ở Việt Nam hiện nay với lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 700 - 800 mm, thời tiết quanh năm nắng nóng. Điều kiện khí hậu khô nóng đã hình thành nên một hệ sinh thái đặc thù với diện tích khoảng 10.600 ha, chiếm khoảng 35% diện tích tự nhiên của Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa.
Cùng với Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa, Khu dự trữ sinh quyển Kon Hà Nừng vừa được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 15/9/2021.
Khu dự trữ sinh quyển Cao nguyên Kon Hà Nừng có diện tích 413.511,67 ha tiêu biểu cho hệ sinh thái rừng ở khu vực Tây Nguyên với hệ thống động, thực vật rất phong phú và đa dạng, nhiều loài quý hiếm có giá trị kinh tế cao được khoanh thành 3 vùng. Vùng lõi có diện tích 57.589 ha gồm Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh và Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng; vùng đệm có diện tích 152.009 ha và vùng chuyển tiếp có diện tích 206.211 ha.
Không chỉ sở hữu những cánh rừng rộng lớn với các đặc điểm chuyên biệt rừng Tây Nguyên, Khu dự trữ sinh quyển Cao nguyên Kon Hà Nừng cơ bản giữ vẹn nguyên hệ sinh thái đặc trưng là rừng kín nhiệt đới với cây xanh lá rộng, cây lá kim, rừng thưa xanh lá kim, thảm cây bụi, trảng cỏ… có tính đa dạng sinh học cao. Trong đó, các loài động, thực vật ở Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh rất đa dạng, phong phú với khoảng 1.754 loài thực vật bậc cao; 91 loài thực vật bậc thấp; 87 loài thú; 326 loài chim; 77 loài bò sát cùng nhiều loài thú quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng là vùng rừng nhiệt đới xanh núi thấp, đặc biệt là nằm ở một phần diện tích có cư dân bản địa sinh sống.
Việc UNESCO công nhận Khu dự trữ sinh quyển Cao nguyên Kon Hà Nừng là khu dự trữ sinh quyển thế giới sẽ là điều kiện quan trọng giúp tỉnh Gia Lai bảo tồn cảnh quan, hệ sinh thái ở khu vực này đồng thời mở ra cơ hội cho người dân phát triển kinh tế thân thiện với môi trường song hành với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Cao nguyên Kon Hà Nừng - Khu dự trữ sinh quyển quý giá của thế giới:
Langbiang là Khu dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên tại miền đất Tây Nguyên được UNESCO công nhận vào ngày 9/6/2015.
Khu dự trữ sinh quyển Langbiang có diện tích 275.439 ha nằm ở phía Bắc tỉnh Lâm Đồng. Đây là nơi lưu giữ những giá trị tiêu biểu về đa dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiện đa dạng hòa quyện với những nét văn hóa đặc sắc của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Khu dự trữ sinh quyển Langbiang bao gồm một vùng rừng nguyên sinh rộng lớn với vùng lõi là Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà, nơi được đánh giá là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam. Các giá trị đa dạng sinh học nổi bật tại đây rất quan trọng và mang tính toàn cầu. Các nhà khoa học đã ghi nhận khu vực này có 153 loài động thực vật nằm trong Sách đỏ Việt Nam (2007) và 154 loài có tên trong Danh lục đỏ IUCN (2010)
Ngày 26/5/2009, với hệ động thực vật phong phú và những di tích lịch sử hàng trăm năm trước, Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Các giá trị đặc trưng, nổi trội của khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm phải kể đến là: Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm được thiết lập năm 2006 thuộc hệ thống các các khu bảo tồn cấp quốc gia; phố cổ Hội An - Di sản văn hóa của UNESCO được công nhận năm 1999; rừng ngập mặn với đặc trưng là hệ sinh thái rừng dừa nước tại vùng cửa sông Thu Bồn; rừng đặc dụng trên đảo Cù Lao Chàm; hệ thống rừng phòng hộ ven biển; các làng nghề truyền thống cùng với những giá trị nổi trội về văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với mảnh đất và con người Hội An qua bao thời kỳ lịch sử.
Ngày 26/5/2009, khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau được UNESCO công nhận. Nơi đây có nhiều hệ sinh thái đặc trưng điển hình như: Hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm trên đất ngập nước than bùn, hệ sinh thái biển... mỗi hệ sinh thái đều lưu giữ các nguồn tài nguyên sinh vật, tài nguyên địa chất phong phú có giá trị bảo tồn cao.
Khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau có 4 đặc trưng sinh thái chính: Hệ thống diễn thế nguyên sinh trên đất bãi bồi; hệ thống chuyển tiếp các hệ sinh thái đặc trưng từ rừng ngập mặn sang rừng tràm ngập nước ngọt theo mùa; là vùng bãi đẻ và nuôi dưỡng con non các loài thủy hải sản cho cả vùng biển rộng lớn.
Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An được UNESCO công nhận vào ngày 18/9/2007. Đây là khu dự trữ sinh quyển có diện tích lớn nhất khu vực Đông Nam Á với tổng diện tích 1,3 triệu ha, thuộc địa bàn 9 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tân Kỳ, Anh Sơn.
Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An có tính đa dạng sinh học rất cao đại diện cho hầu hết các kiểu rừng của rừng mưa nhiệt đới, các sinh cảnh sống rất đa dạng bao gồm: núi, đất ngập nước, suối và sinh cảnh khác. Đây là khu vực duy nhất của miền Bắc còn lại một diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt.
Đây cũng là nơi hội tụ của nhiều yếu tố hệ động, thực vật, tính đa dạng sinh học cao, có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao với sự có mặt của 70 loài thực vật và 80 loài động vật được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam. Trong đó có nhiều loài đặc biệt quý hiếm, đặc hữu của khu vực như: sao la, chà vá chân nâu, sa mu dầu và quần thể voi hoang dã.
Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới tại kỳ họp thứ 19 từ ngày 23 - 27/10/2006, tại Paris.
Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang bao trùm địa phận các huyện Phú Quốc, An Minh, Vĩnh Thuận, Kiên Lương và Kiên Hải. Khu có ba vùng lõi thuộc các Vườn quốc gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia Phú Quốc và Rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên Hải.
Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang chứa đựng sự phong phú, đa dạng và đặc sắc về cảnh quan và hệ sinh thái. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang có 6 hệ sinh thái với 22 dạng sinh cảnh khác nhau. Trong đó, rừng tràm ngập chua phèn là hệ sinh thái điển hình, trong vùng lõi ở khu vực U Minh Thượng có gần 4.000 ha “Rừng úng phèn” được xếp hạng độc đáo, quý hiếm trên thế giới, mang những đặc điểm của rừng cực đỉnh nguyên sinh với các ưu hợp rừng tràm hỗn giao và rừng tràm trên đất than bùn.
Hệ động thực vật có khoảng 2.340 loài, trong đó 1.480 loài thực vật với 116 loài quý hiếm được ghi trong sách Đỏ và 57 loài đặc hữu như cù đèn Phú Quốc, trèn Phú Quốc, huỳnh đàn Phú Quốc… Ngoài ra, còn có loài có nguy cơ tuyệt chủng như trai, thông lông gà, hoàng đàn…
Hệ động vật có 860 loài với 78 loài quý hiếm, trong đó có 36 loài đặc hữu. Trong loài thú lớn, có 7 loài thú bị đe dọa trên toàn cầu, điển hình như khỉ đuôi dài, rái cá vuốt bé hay rái cùi, rái cá lông mũi. Trong các loài chim, có 8 loài chim bị đe dọa trên toàn cầu, điển hình như đại bàng đen, quắm trắng đầu đen, già sói.
Đặc biệt có 108 loài san hô, 9 loài cỏ biển, trong hệ sinh thái này có 166 loài rong biển; 258 loài động vật, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao, đặc biệt có 2 loài cá cơm là Spratelloides gracilis và Stolephorus indicus là nguyên liệu chính để sản xuất nước mắm đặc trưng của Phú Quốc.
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng được UNESCO công nhận ngày 2/12/2004. Đây là khu dự trữ sinh quyển đất ngập nước ven biển thuộc 3 tỉnh châu thổ sông Hồng là Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình.
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng chứa đựng những hoạt động kiến tạo địa chất và đa dạng sinh học có giá trị nổi bật toàn cầu với các kiểu sinh cảnh chủ yếu như: bãi bùn, bãi cát ngập triều, trảng cỏ, sậy, rừng ngập mặn cùng các cồn cát phi lao.
Ấn tượng nhất phải kể đến khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài chim di cư, hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới như: cò thìa, mòng bể, rẽ mỏ thìa, cò trắng bắc... Sinh cảnh đặc sắc nơi đây là những cánh rừng ngập mặn rộng hàng ngàn ha, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông. Những cánh rừng này được ví như bức tường xanh bảo vệ đê biển, làng xóm khỏi bị tàn phá bởi gió bão, nước biển dâng, và cả thảm họa sóng thần nếu xảy ra.
Khu Bảo tồn sinh quyển thế giới Cát Bà nằm trên đảo Cát Bà, thuộc thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Ngày 2/12/2004, Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà vinh dự được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Với tổng diện tích hơn 26.000 ha, khu dự trữ sinh quyển Cát Bà bao gồm 2 vùng lõi được bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người, 2 vùng đệm cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp để phát triển kinh tế.
Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà được phân bố chủ yếu trên đảo đá vôi Cát Bà và khoảng 400 hòn đảo nhỏ xung quanh, nơi còn lưu giữ hơn 70 di chỉ khảo cổ học thuộc các nền văn hóa Sơn Vi, Soi Nhụn cách đây từ 4.000 - 25.000 năm. Tiêu biểu trong số này là khu di chỉ Cái Bèo, nơi cư ngụ của người nguyên thủy cách đây 4.000 - 7.000 năm.
Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là trung tâm đa dạng sinh học lớn của Việt Nam. Theo điều tra bước đầu, nơi đây có 620 loài thực vật bậc cao phân bố thuộc 4 chi và 123 họ, trong đó có những loài mà hiện nay chỉ tìm thấy ở Cát Bà như kim giao, lát khối, sến mật, lát hoa, re hương, thổ phục linh…
Trên đảo Cát Bà có 32 loài thú, 69 loài chim và 20 loài bò sát, lưỡng cư. Nhiều loài được xác định đặc biệt quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới như Voọc đầu trắng, sơn dương, rái cá, báo, mèo rừng, cầy hương, sóc đen. Đặc biệt voọc đầu trắng là loài đặc hữu ở Cát Bà.
Biển Cát Bà có 300 loài cá, 500 loài thân mềm và giáp xác, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế và nghiên cứu khoa học cao.
Ngày 10/11/2001, Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai được UNESCO công nhận khu dự trữ sinh quyển với tổng diện tích gần 970.000 ha.
Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai chia làm 3 phần là: vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, trải rộng trên địa bàn các tỉnh: Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước và Đắk Nông. Trong đó, có hơn 80% diện tích vùng lõi nằm trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh Đồng Nai.
Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai được thành lập trên cơ sở mở rộng Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên cũ đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Các khu vực cấu thành gồm: Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên, Khu Ramsar Bàu Sấu, Khu Bảo tồn thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu, Khu Bảo tồn vùng nước nội địa Trị An - Đồng Nai.
Môi trường thiên nhiên ở Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai được đánh giá là quý hiếm và vô cùng giá trị. Theo Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã Việt Nam (WCS), Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai là nơi còn giữ được nhiều rừng tự nhiên và bảo tồn được nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm của Việt Nam, thế giới như: voi, bò tót, gấu chó, tê giác java, gà so cổ hung... Ngoài ra, nơi đây còn bảo tồn nhiều loại thực vật quý hiếm như: gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương, thủy tùng, căm xe, trắc.
Nhiều nhà khoa học đánh giá, khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai được xem như lá phổi xanh cho khu vực Đông Nam Bộ, có nhiều đóng góp trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Với cảnh quan tươi đẹp, hệ thống động thực vật đa dạng và phong phú cả về số lượng và chủng loại, rừng ngập mặn Cần Giờ còn gọi là rừng Sác được UNESCO công nhận khu dự trữ sinh quyển thế giới vào ngày 21/1/2000. Đây cũng là khu dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên tại Việt Nam.
Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ là một quần thể gồm các loài động, thực vật rừng trên cạn và thủy sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ.
Rừng ngập mặn Cần Giờ sở hữu điều kiện môi trường rất đặc biệt, là hệ sinh thái trung gian giữa hệ sinh thái thủy vực với hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước ngọt và hệ sinh thái nước mặn. Hệ thực vật nơi đây rất phong phú với trên 150 loài thực vật, trở thành nguồn cung cấp thức ăn và nơi trú ngụ cho rất nhiều loài thủy sinh, cá và các động vật có xương sống khác.
Khu hệ động vật thủy sinh không xương sống có trên 700 loài, khu hệ cá trên 130 loài, khu hệ động vật có xương sống có 9 loài lưỡng thê, 31 loài bò sát, 4 loài có vú. Khu hệ chim có khoảng 130 loài thuộc 47 họ, 17 bộ.
Không chỉ là địa điểm lý tưởng phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn có ý nghĩa to lớn đối với bảo vệ môi trường. Đây được coi là "lá phổi", là "quả thận" có chức năng làm sạch không khí và nước thải từ các thành phố trong thượng nguồn sông Ðồng Nai - Sài Gòn đổ ra Biển Ðông.
Bài: Nguyễn Thị Hà - Phương Anh
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát; Video: Vnews
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Hà Nguyễn
18/09/2021 06:30