Nguồn gen là tài sản quốc gia, là nguồn tài nguyên sinh học để phát triển khoa học, kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng, an ninh. Việc bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen là trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ thu thập, lưu giữ tối thiểu 100.000 nguồn gen động, thực vật hoang dã và giống cây trồng, vật nuôi.
Ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại kết hợp hài hòa với tri thức truyền thống trong bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ thiên nhiên, môi trường được thực hiện trên cơ sở mạng lưới quỹ gen thống nhất toàn quốc.
Thực hiện Chương trình bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen theo Quyết định số 1671/QĐ-TTg của Chính phủ, nhiều giống vật nuôi bản địa đã được bổ sung vào danh sách các giống vật nuôi được phép sản xuất, kinh doanh như: Gà lông chân, gà Tò, vịt Sín Chéng, vịt Minh Hương, lợn Mường Tè, lợn cỏ Bình Thuận, lợn Xao Va, ngỗng Xám. Nhiều giống gia súc, gia cầm được công nhận nhãn hiệu tập thể như: trâu Bảo Yên, gà Đông Tảo, gà móng Tiên Phong, gà Mía, lợn Móng Cái và một số sản phẩm như: thịt bò Hà Giang, vịt Cổ Lũng… được đưa vào danh sách chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam.
Theo báo cáo Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến hết tháng 6/2022, nhiều đề tài khai thác, phát triển nguồn gen đã và đang được thực hiện trên các đối tượng như: lợn Hạ Lang, lợn Táp Ná, gà Mía, gà Móng (2011 - 2015); vịt Bầu Bến, vịt Đốm, vịt Kỳ Lừa, vịt Mốc, gà Đông Tảo, gà Tre, gà Chọi; lợn Mường Khương, lợn Mán, lợn Sóc, bò H’Mông (2012 - 2015); lợn Hung, gà Tè (2012 - 2014); gà Liên Minh, gà Tiên Yên, bò U Đầu Rìu và gà Cu Roang (2013 - 2016); lợn Xao Va, vịt Cổ Lũng, gà Cáy Củm, gà Tai đỏ, gà Hắc Phong và gà Tò (2014 - 2017); lợn Hương, trâu Bảo Yên, gà Lạc Thủy, gà Kiến, vịt Sín Chéng (2016 - 2020); lợn Mẹo, lợn cỏ A Lưới, vịt Hòa Lan, gà Xước, ngan Sen (2017 - 2020); gà Lạc Sơn, gà nhiều ngón, lợn ỉ, trâu Chiêm Hóa (2018 - 2021); Rồng đất, trâu Langbiang, lợn H’Mông (bắt đầu từ năm 2020). Nhóm các dự án sản xuất thử nghiệm đang thực hiện trên các đối tượng: gà Cáy Củm, gà Liên Minh, ngan Trâu, vịt Minh Hương (2019 - 2022); gà Hắc Phong, gà Tai đỏ, vịt Cổ Lũng, lợn Táp Ná (bắt đầu từ 2020)…
Nhìn chung, các nhiệm vụ khai thác, phát triển nguồn gen vật nuôi đã góp phần phục tráng, hoàn thiện việc đánh giá bổ sung một số đặc điểm như di truyền, ngoại hình, đặc tính sinh học, sinh sản, dinh dưỡng, thương phẩm, phân bố và khả năng phát triển nhân rộng của nhiều nguồn gen vật nuôi quý hiếm.
Có thể nhận thấy, các nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen vật nuôi đều cho kết quả tốt, được ứng dụng hiệu quả vào đời sống. Đáng chú ý, sau một thời gian thực hiện, các đề tài nghiên cứu không những đã chọn lọc được đàn hạt nhân mang các đặc trưng của giống dựa trên các tiêu chuẩn cơ sở mà còn xây dựng được một số quy trình chăn nuôi phù hợp với từng đối tượng vật nuôi. Hiện nay, các dự án sản xuất thử nghiệm với sự tham gia của doanh nghiệp đã được tiến hành nhằm hoàn thiện các quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với thực tế và xây dựng các mô hình sản xuất thương phẩm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
Trong 5 năm trở lại đây, công tác cấp phát nguồn gen đã có những bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Trung bình mỗi năm, Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) cấp khoảng 1.000 mẫu giống. Các mẫu giống được sử dụng có hiệu quả trong nghiên cứu và khai thác nguồn gen.
Công tác phát triển trực tiếp nguồn gen để đưa vào sản xuất tạo hàng hóa là hướng đi được cả hệ thống quan tâm và triển khai. Thông qua kết quả đánh giá nguồn gen đang được bảo tồn, Trung tâm Tài nguyên thực vật đã xác định và bình tuyển được nhiều giống cây trồng triển vọng phục vụ sản xuất như: lúa Tám đa dòng (T3), lúa nếp, lúa chịu hạn, lúa tẻ thơm (LT3), lúa KD19. Một số giống khoai môn sọ như: KS5, KS4, KM-1; giống đậu tương; giống rau địa phương (cải Mào gà Hoài Đức, cải ngồng Lạng Sơn, cải Mèo Hòa Bình, húng Láng); giống hoa; gừng - riềng; giống khoai lang ăn củ, khoai lang ăn lá làm rau dinh dưỡng. Các giống khoai sọ KS4, giống hoa Đuôi chồn đỏ đã được công nhận là giống quốc gia. Ba giống khoai lang rau (KLR1, KLR3, KLR5) và khoai môn nước KM-1 đã được công nhận sản xuất thử.
Nhiều giống đang được Trung tâm Tài nguyên thực vật khai thác để phát triển đưa vào sản xuất hàng hóa như: Lúa dự thơm Thái Bình, lúa Di hương Hải Phòng, lúa Khẩu ký, lúa Khẩu nậm pua; bí xanh Chữ thập, mướp đắng, củ từ Bon Nghệ An, khoai sọ muộn Yên Thế, bưởi Quế Dương, bưởi đường Hiệp Thuận, hồng Yên Thôn...
Ông Nguyễn Đình Hậu, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Công tác khai thác nguồn gen đã được các đơn vị tập trung triển khai, đạt được kết quả như: chọn tạo/phục tráng, phát triển được 30 giống lúa tại các tỉnh Bình Thuận, Phú Yên, Cần Thơ; phục tráng/chọn tạo được các giống dứa Cayen không gai Chân Mộng; vải Hùng Long - VPH10; chuối Tiêu vừa Phú Thọ - VN1064; xoài Vân Du - XPH11; giống Lạc tiên - LPH04; giống cà phê chè - TN1 và TN2; quýt - PQ1... Các giống trên cho năng suất cao, chất lượng, khả năng chống chịu tốt. Nhiều nguồn gen cây cải tạo và bảo vệ đất đã được sử dụng để phục hồi, cải tạo, chống xói mòn đất tại huyện Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) và thành phố Cẩm Phả (tỉnh Quảng Ninh); chống xói lở đất đường Hồ Chí Minh ở Hà Tĩnh, Hòa Bình, Quảng Bình và một số nơi khác.
Thời gian qua, 42 nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho phép khai thác, phát triển dạng thuần. Việc phát triển, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn gen vật nuôi bản địa góp phần cung cấp nguyên liệu di truyền phục vụ phát triển ngành chăn nuôi, đưa nhanh ra sản xuất đó là phát huy ưu thế lai giữa các nguồn gen bản địa và nhập nội. Điều này, khẳng định thêm vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo tồn lưu giữ nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam. Đáng chú ý, một số nguồn gen chỉ được bảo tồn ở một nơi hoặc bảo tồn trên địa bàn hẹp sẽ dễ mất nguồn gen khi có dịch bệnh hoặc thiên tai xảy ra.
Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ thu thập, lưu giữ tối thiểu 100.000 nguồn gen động, thực vật hoang dã và giống cây trồng, vật nuôi.
Để thực hiện mục tiêu, Việt Nam sẽ xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; chú trọng công tác bảo tồn tại chỗ, nghiên cứu gây nuôi bảo tồn và tái thả vào tự nhiên một số loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; quản lý, bảo vệ các loài hoang dã di cư; tăng cường phối hợp với các tổ chức quốc tế thiết lập hệ thống theo dõi, giám sát các tuyến di cư quan trọng của các loài hoang dã di cư.
Việc điều tra, đánh giá thực trạng các loài thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm; xây dựng và phát triển các vườn thực vật, áp dụng các biện pháp nhân giống, phục hồi và mở rộng diện tích trồng các loài thực vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; thực hiện bảo tồn tại chỗ các loài cây dược liệu có giá trị được làm thường xuyên. Định kỳ cập nhật và công bố Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; cập nhật, biên soạn và xây dựng trang thông tin điện tử về Sách đỏ Việt Nam; xây dựng Danh mục các loài hoang dã nguy cấp và chế độ quản lý, bảo vệ phù hợp với từng nhóm loài.
Chương trình cần mở rộng và tăng cường năng lực mạng lưới các trung tâm cứu hộ trên toàn quốc bảo đảm nhu cầu cứu hộ các loài hoang dã theo vùng miền và loại hình cứu hộ các loài hoang dã, phát triển các cơ sở gây nuôi bảo tồn; tăng cường hệ thống triển lãm, trưng bày, bảo tàng thiên nhiên, đa dạng sinh học ở Việt Nam; hoàn thiện hành lang pháp lý và hướng dẫn kỹ thuật để quản lý các cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học.
Tại Việt Nam, để bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học, từ nay đến năm 2025, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, bằng những công nghệ truyền thống. Giai đoạn từ 2025 - 2030 sẽ định hướng nâng cấp, tích hợp công nghệ phục vụ công tác bảo tồn vật nuôi nhằm lưu giữ chắc chắn nguồn gen quý trong mọi điều kiện bất lợi, nhân nhanh được nguồn gen cho nhu cầu sản xuất, triển khai thành hàng hóa và bảo tồn bền vững.
Có thể nói, công tác bảo tồn nguồn gen đã được quan tâm phát triển và có những bước chuyển rõ rệt, đặc biệt một số nguồn gen vật nuôi đã triển khai thành hàng hóa và bảo tồn bền vững. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, do thiếu nguồn nhân lực, kinh phí, nhận thức xã hội về việc bảo tồn quỹ gen còn thấp nên công tác bảo tồn chưa đạt hiệu quả cao.
Theo Vụ trưởng Vụ Khoa học và công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học và Công nghệ) Nguyễn Đình Hậu, quan điểm của Bộ Khoa học và Công nghệ là lồng ghép chính sách bảo tồn với các chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, lồng ghép công tác khoa học - công nghệ về nguồn gen với các hoạt động công nghệ, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế vùng và địa phương.
Đến nay, cả nước đã xây dựng được một mạng lưới bảo tồn nguồn gen vật nuôi rộng lớn từ Trung ương đến các địa phương do Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thực hiện với mạng lưới là các trường đại học, viện nghiên cứu, hiệp hội, các nông hộ và chủ trang trại, gia trại nơi có nguồn gen vật nuôi. Song song với việc hình thành, xây dựng và phát triển mạng lưới, hệ thống cơ sở vật chất, chuồng trại đã được nâng cấp cải tạo, đặc biệt là các cơ sở nghiên cứu thuộc Viện Chăn nuôi để lưu giữ nguồn gen vật nuôi một cách ổn định với quy mô hợp lý trên các địa bàn khác nhau trong cả nước.
Bên cạnh đó, Viện Chăn nuôi được Nhà nước đầu tư xây dựng một Phòng Thí nghiệm trọng điểm công nghệ tế bào động vật với hệ thống trang thiết bị, máy móc hiện đại để phục vụ nghiên cứu, đánh giá di truyền phân tử, lưu giữ các nguyên liệu di truyền của nguồn gen vật nuôi để bảo tồn và lưu giữ nguồn gen tốt hơn và từng bước khai thác phát triển hợp lý giá trị kinh tế các đối tượng nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam. Tuy nhiên, hiện phương pháp bảo quản còn đơn giản, số lượng nguồn gen được bảo quản bằng các phương pháp bảo quản dài hạn còn hạn chế. Cơ sở bảo quản và lưu giữ nguồn gen còn chưa đủ hoặc thiếu trang thiết bị chuyên dụng, phục vụ bảo quản dài hạn nguồn gen vi sinh vật như: bình ni-tơ lỏng, máy đông khô, chưa có phòng riêng bảo quản, lưu giữ nguồn gen vi sinh vật...
Theo báo cáo, công tác đánh giá nguồn gen đã được chú trọng nhưng số lượng nguồn gen được bảo quản, lưu giữ còn ít so với trên thế giới. Công tác phân lập, tuyển chọn nguồn gen vi sinh vật hiện nay đang tập trung theo hướng phục vụ khai thác sử dụng chứ chưa đánh giá được tính đa dạng của nguồn gen theo tính chất đất, loại cây trồng và theo vùng sinh thái... Đặc biệt, nguồn gen vi sinh vật được đưa vào khai thác, sử dụng trong sản xuất phân bón, chế phẩm vi sinh vật và phòng trừ dịch hại còn ít, chưa đáp ứng được thực tế sản xuất nông nghiệp bền vững và bảo vệ môi trường Việt Nam.
Hiện nay, cơ sở dữ liệu nguồn gen bước đầu đã được xây dựng, tuy nhiên chưa xây dựng được mạng lưới nguồn gen trong cả nước tham gia vào mạng lưới nguồn gen nói chung, nguồn gen nông nghiệp trong khu vực và trên thế giới nên việc giới thiệu, quảng bá, khai thác sử dụng nguồn gen còn hạn chế.
Vì vậy, cần tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cấp và trang thiết bị bảo tồn, đánh giá nguồn gen, hệ thống bảo quản, nhà lưới; gia tăng nguồn lực khoa học - công nghệ trong lĩnh vực bảo tồn, khai thác, phát triển nguồn gen, tạo điều kiện để cán bộ thực hiện nhiệm vụ tiếp cận các nguồn thông tin, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, phương pháp, kỹ thuật trong bảo tồn, đánh giá tuyển chọn và khai thác nguồn gen tại Việt Nam cũng như trên thế giới.
Bài: Thu Hà
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Quốc Bình
17/09/2022 04:56