Hiện nay, ở một số địa phương, du lịch làng nghề vẫn chưa được khai thác tương xứng tiềm năng, còn “bỏ qua” khá nhiều điểm nhấn thu hút du khách. Thực tế này đòi hỏi cần có những giải pháp phối hợp đồng bộ hơn giữa các ngành, hiệp hội, doanh nghiệp và cả những người thợ làng nghề để phát triển sản phẩm du lịch gắn với làng nghề đạt hiệu quả cao, vừa bảo tồn nghề truyền thống, vừa định vị thêm các điểm đến du lịch hấp dẫn.
Làng nghề cùng các sản phẩm được hình thành từ hoạt động lao động sản xuất của người dân làng nghề, những giá trị hữu hình và vô hình kết tinh trong sản phẩm chính là chất liệu, tài nguyên hình thành nên nhiều sản phẩm du lịch, góp phần tạo dựng, phát triển thương hiệu du lịch của từng địa phương.
Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện cả nước có khoảng 5.400 làng nghề, trong đó trên 2.000 làng nghề truyền thống, thuộc nhiều nhóm ngành nghề khác nhau, hiện diện ở khắp các địa phương.
Các tỉnh, thành phố Nam Bộ, gồm khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là nơi có hệ thống làng nghề phong phú, đa dạng. Trải qua nhiều thăng trầm, nhiều làng nghề vẫn được duy trì, phát triển, phản ánh đặc trưng văn hóa làng nghề Việt Nam nói chung, đồng thời thể hiện nét riêng của từng địa phương. Nhiều chuyên gia nhận định, hầu hết các làng nghề tồn tại đến nay có từ lâu đời, gắn liền với lịch sử, dựa trên các yếu tố cơ bản là vùng nguyên liệu và giao thông, đặc biệt là đường thủy. Vì vậy, làng nghề không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa “nghề” với “nghiệp” mà còn chứa đựng những yếu tố tinh thần đậm nét, phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội liên quan đến nghề sản xuất truyền thống.
Đề cập về làng nghề ở Đông Nam Bộ, Tiến sĩ Trần Minh Đức, Trường Đại học Thủ Dầu Một cho biết, Đông Nam Bộ gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu đang duy trì được hệ thống các làng nghề phong phú và đa dạng. Có thể kể đến Thành phố Hồ Chí Minh với các làng nghề: mành trúc Tân Thông Hội, chằm nón Tằm Lanh, bánh tráng Phú Hòa Đông, đan bồ An Nhơn Tây, chiếu Nam Đa Phước, dệt Bảy Hiền, lồng đèn Phú Bình...
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có các làng nghề gạch ngói, gốm Long Mỹ hay làng nghề mộc, điêu khắc gỗ, đúc đồng Long Điền, làng cá Phước Hải, bánh tráng An Ngãi. Tỉnh Đồng Nai lại có làng gốm Biên Hòa, bưởi Tân Triều, gỗ mỹ nghệ Xuân Tâm, điêu khắc đá Biên Hòa.
Vùng đất Bình Dương nổi tiếng với các làng nghề gốm sứ Tân Phước Khánh, Lái Thiêu, Chánh Nghĩa, sơn mài Tương Bình Hiệp, điêu khắc gỗ Phú Thọ. Tỉnh Tây Ninh có làng nghề bánh tráng Trảng Bàng, mây tre nứa Trảng Bàng, Châu Thành, Hòa Thành, Bến Cầu, chằm nón Ninh Sơn, đúc gang Trường Thọ, mộc Hiệp Tân, Trường Tây hay làng làm muối tôm ở Gò Dầu, Trảng Bàng.
Không chỉ ở Đông Nam Bộ, các địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng sở hữu hàng trăm làng nghề truyền thống hoặc mới được hình thành, là nguồn tạo việc làm cho nhiều lao động tại chỗ. Các làng nghề hoặc nhóm ngành, nghề gắn liền với đời sống người dân vùng sông nước, miệt vườn phương Nam qua năm tháng mà đôi khi chỉ mới nghe đến tên gọi đã phần nào hình dung ra nét riêng, độc đáo như làm mắm, làm muối, làm khô bổi, khô cá, khô tôm, muối ba khía, gác kèo ong (dựng nhà cho ong về làm tổ, kéo mật), làm bánh tét, trồng hoa kiểng, đóng xuồng ghe, đan lục bình.
Theo Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Tháp Ngô Quang Tuyên, tỉnh có nhiều làng nghề nổi tiếng, được xem là thương hiệu khi nhắc tới đất Sen hồng Đồng Tháp như các làng hoa kiểng, làm bột, làm bánh phồng tôm ở thành phố Sa Đéc, nem Lai Vung ở huyện Lai Vung, dệt choàng Long Khánh, huyện Hồng Ngự, làng thớt Định An tại huyện Lấp Vò, làng cá khô Phú Thọ thuộc huyện Tam Nông hay hai làng nghề đóng xuồng ghe Long Hậu (huyện Lai Vung) và dệt chiếu Định Yên (huyện Lấp Vò) với nghề truyền thống đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia.
Theo thông tin từ UBND tỉnh Kiên Giang, địa bàn tỉnh có trên 40 nghề, làng nghề truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa của cộng đồng dân cư vùng đất phía Tây Nam đất nước, được chia thành các nhóm ngành nghề: sản xuất thủ công mỹ nghệ; chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản; xử lý, chế biến nguyên vật liệu vụ sản xuất; sinh vật cảnh; dịch vụ. Các làng nghề tiêu biểu như nghề làm nước mắm, nuôi ngọc trai ở Phú Quốc, nghề làm đường thốt nốt ở xã Bình An, huyện Kiên Lương, nghề chẻ đá và nghề nắn nồi đất ở xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, nghề đan lục bình ở xã Vĩnh Hòa Hưng Bắc, huyện Gò Quao…
Tại Nam Bộ, nhiều làng nghề đã được đưa vào khai thác du lịch nhờ tính độc đáo, mang đậm nét giá trị truyền thống, văn hóa bản địa, khiến du khách luôn cảm thấy sự khác biệt khi có dịp đến tham quan, tìm hiểu. Không những thế, các sản phẩm du lịch làng nghề cũng được các địa phương khai thác theo hướng “du lịch xanh” để đạt “mục tiêu kép” vừa gìn giữ môi trường, đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân làng nghề, vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm du lịch, góp phần hướng tới “kinh tế xanh”, phát triển du lịch bền vững.
Nhiều điểm đến là các làng nghề hoặc các cơ sở sản xuất nghề truyền thống được các doanh nghiệp lữ hành uy tín thiết kế, phối hợp với địa phương, cơ sở sản xuất đưa vào khai thác trong các chương trình tour như: làng nghề làm sơn mài, gốm ở Bình Dương; làng hoa, làng chế biến bột ở Thành phố Sa Đéc (Đồng Tháp); làng nghề sản xuất kẹo dừa, bánh tráng phồng, đan giỏ cọng dừa ở Bến Tre; làm nước mắm, nuôi ngọc trai ở Phú Quốc (Kiên Giang) hay chế biến thủy sản ở Cà Mau.
Ông Ngô Quang Tuyên, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Tháp cho hay, từ các nghề truyền thống, nhiều đơn vị, doanh nghiệp đã phối hợp với ngành Du lịch, Hiệp hội làng nghề, người dân địa phương xây dựng các chương trình tham quan, du lịch hoàn chỉnh như: trải nghiệm Đồng Tháp mỗi ngày một nghề, Sắc xuân Đồng Tháp, Trải nghiệm mùa nước nổi của ngư dân vùng Đồng Tháp Mười, Đi trong màu xanh vườn cây trái..., đến các làng nghề trồng hoa, xay bột Sa Đéc, đóng xuồng, ghe Long Hậu, làm nem Lai Vung, cùng với các điểm đến du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, thưởng thức ẩm thực.
Tỉnh Đồng Tháp có trên 60 điểm du lịch gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp, làng nghề, nghề truyền thống, thu hút lượng lớn du khách. Riêng làng hoa Sa Đéc, mỗi năm đón trung bình trên 1 triệu du khách. Chính mô hình sản xuất của làng nghề kết hợp với phát triển du lịch, hình thành các điểm đến có sức hút đã giúp người dân làng hoa Sa Đéc ngày càng nâng cao thu nhập.
Ông Trần Thanh Hùng, Chủ tịch Hội quán nông dân làm du lịch, làng hoa Sa Đéc tự hào giới thiệu: Sa Đéc là một trong những làng hoa lớn nhất cả nước được hình thành hơn 100 năm nay. Không chỉ là những nông dân làm nông nghiệp, nhiều hộ ở làng hoa còn tích cực làm dịch vụ, du lịch. Hiện nay Hội quán nông dân làm du lịch có gần 30 thành viên, sản xuất, kinh doanh các hoa, cây cảnh, xây dựng và khai thác các điểm du lịch cộng đồng, trong đó có 3 điểm du lịch đã được công nhận là sản phẩm OCOP (sản phẩm thuộc chương trình Mỗi xã một sản phẩm).
Nhờ gắn kết nghề truyền thống với phát triển du lịch, nhiều hộ trồng hoa ở Sa Đéc đã thu được mức lợi nhuận gấp 4 - 5 lần so với chỉ canh tác hoa trước đây. Du khách đến làng nghề Sa Đéc luôn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của hàng trăm loài hoa, cây cảnh và lại càng cảm thấy thú vị hơn khi được người trồng hoa nói về quá trình trồng, chăm sóc cây hoa khá độc đáo.
Du khách Hoàng Văn Biên, ở thành phố Hà Giang (tỉnh Hà Giang) đến Đồng bằng sông Cửu Long tham quan các làng nghề, cơ sở sản xuất nghề truyền thống ở “đảo ngọc” Phú Quốc. Ông hào hứng chia sẻ, ông rất ấn tượng khi đến thăm một cơ sở sản xuất nước mắm hay còn gọi là nhà thùng ở phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc. Ông bất ngờ khi biết nghề làm nước mắm truyền thống Phú Quốc đã có từ trên 200 năm nay. Các thùng ủ mắm làm bằng gỗ bề thế, vững chãi được quấn những vành đai chắc chắn xung quanh, quá trình chế biến ủ, ướp cũng rất công phu để có được những giọt nước mắm sóng sánh, hương vị đậm đà, làm nên thương hiệu nổi tiếng nước mắm Phú Quốc.
Các địa phương phía Nam sở hữu hệ thống làng nghề phong phú, khá nhiều làng nghề đã được đưa vào khai thác, phục vụ du lịch cùng với hoạt động sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Song, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, bên cạnh những điểm đến làng nghề đã thực sự là điểm đến du lịch, “níu chân” du khách ở lại khám phá, tìm hiểu và trải nghiệm, vẫn có những điểm đến mới chỉ là “nơi ghé chân”, “lướt qua”.
Tiến sĩ Đoàn Ngọc Xuân, Vụ Xã hội, Ban Kinh tế Trung ương nhận định, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng của chính quyền ở các địa phương, nhưng nhiều năm qua, chỉ có một số làng nghề được khai thác, đưa vào các chương trình du lịch của một số doanh nghiệp lữ hành. Hơn nữa, việc khai thác này ở một số điểm đến - làng nghề cũng còn khiêm tốn, chưa được tổ chức một cách quy mô lớn, có hệ thống và có nơi còn mang tính tự phát từ phía các doanh nghiệp lữ hành do nhu cầu đa dạng sản phẩm du lịch cho du khách. Trong khi thực tế, du lịch làng nghề không chỉ đơn thuần là đến xem các nghệ nhân làng nghề làm ra sản phẩm, hay đến mua sắm, tham quan mà khách du lịch còn mong muốn được tìm hiểu những giá trị nhân văn trong đó, những giá trị phi vật thể tồn tại qua thời gian ở làng nghề.
Bày tỏ sự tiếc nuối khi tại một số làng nghề có rất nhiều tiềm năng để thu hút du khách đến, ở lại trải nghiệm nhiều hơn, một hướng dẫn viên du lịch đã chia sẻ: Có làng nghề rất độc đáo song lại chưa thể trở thành điểm đến độc lập đối với hoạt động du lịch. Nếu đưa du khách đến tham quan có khi chỉ sau khoảng 15 phút ở làng nghề hoặc cơ sở sản xuất, du khách đã vội lên xe sau khi mua một số sản phẩm nhưng cũng chưa hiểu hết giá trị, tính độc đáo của sản phẩm. Quy mô làng nghề, không gian thực hành nghề còn đơn điệu, chưa lôi cuốn, thu hút du khách đến và trải nghiệm được nhiều.
Điều du khách mong muốn là được tìm hiểu các nguyên liệu làm ra sản phẩm, giá trị thể hiện ở cách quy trình sản xuất, giá trị, công dụng sản phẩm do chính người thợ làng nghề chia sẻ, kể những câu chuyện, lịch sử liên quan đến nghề truyền thống mà du khách khó có thể tìm thấy ở nơi khác. Hoặc có trường hợp, bản thân nghề sản xuất truyền thống làng nghề rất hấp dẫn, làng lại có những người thợ hiếu khách, nhiệt tình đón tiếp, sẵn sàng kể những câu chuyện làng nghề cho du khách, song khó khăn, thách thức lại đến từ hạ tầng giao thông. Đường nhỏ, xuống cấp khiến các doanh nghiệp lữ hành rất khó khăn tìm phương án đưa những đoàn khách số lượng lớn đến tham quan, trải nghiệm.
Phát triển du lịch làng nghề được coi là giải pháp quan trọng trong gìn giữ, bảo tồn và tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho khu vực nông thôn chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030”, là định hướng quan trọng mở ra nhiều cơ hội mới để các địa phương đẩy mạnh bảo tồn phát triển làng nghề gắn với hoạt động du lịch trong giai đoạn mới. Chương trình này đã xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là phục hồi, tôn tạo các di tích liên quan đến giá trị văn hóa nghề, làng nghề truyền thống (nhà thờ tổ nghề, không gian, cảnh quan làng nghề); khôi phục tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, phát huy các giá trị văn hóa của nghề và làng nghề trong xây dựng môi trường du lịch văn hóa, đồng thời tổ chức chuỗi giá trị, phát triển làng nghề gắn với du lịch, góp phần phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Từ góc độ địa phương có thế mạnh về phát triển du lịch làng nghề, theo Giám đốc Sở Du lịch Kiên Giang Bùi Quốc Thái, tỉnh đã có Đề án phát triển các ngành nghề truyền thống gắn với du lịch, giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Kiên Giang xác định phát triển khai thác làng nghề, sản phẩm làng nghề để góp phần quảng bá, giới thiệu các giá trị văn hóa của nghề truyền thống, đảm bảo không làm tổn hại đến các tài nguyên tự nhiên, tuân thủ các nguyên tắc bảo vệ môi trường, đóng góp vào cải thiện đời sống dân làng nghề. Tỉnh đề ra các nhóm giải pháp như hoàn thiện cải tiến chất lượng các điểm du lịch làng nghề, nghề truyền thống đã có hoạt động du lịch trước đây để quảng bá phát triển du lịch làng nghề ở địa phương, đồng thời đúc kết kinh nghiệm, xây dựng các chính sách, quy định cụ thể đối với phát triển du lịch làng nghề. Tỉnh xây dựng các chuỗi giá trị sản phẩm du lịch tham quan làng nghề nhằm tăng hiệu quả của sản xuất nghề truyền thống và hoạt động du lịch, liên kết phát triển kết nối tour, tuyến đến các làng nghề, điểm sản xuất nghề truyền thống. Kiên Giang phấn đấu đến năm 2025 có 8 làng nghề truyền thống được đưa vào khai thác du lịch và đến năm 2030 có 22 làng nghề đưa vào khai thác du lịch.
Cùng góc nhìn từ địa phương, nhóm Sáng tạo trẻ Bến Tre gồm Phạm Nguyễn Phúc Toàn, Phạm Nguyễn Khôi Nguyên và Phạm Văn Luân đề xuất: Bến Tre có tới trên 72.000 ha trồng dừa, nhiều làng nghề, nghề truyền thống liên quan đến sơ chế, chế biến các sản phẩm từ cây dừa. Do đó, trong phát triển sản phẩm du lịch, cần chú ý nhiều hơn đến hàm lượng văn hóa, các giá trị di sản văn hóa phi vật thể kết tinh trong những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc sản ẩm thực, nguyên liệu sản xuất được hình thành, chế biến từ cây dừa để giới thiệu đến du khách. Các đơn vị khai thác sản phẩm tăng cường chuyển tải, lồng ghép câu chuyện dân gian, giai thoại, sự kiện văn hóa - xã hội, hình ảnh cây dừa trong thế giới thi ca, hội họa, âm nhạc, tạo nét riêng cho sản phẩm du lịch Bến Tre từ yếu tố văn hóa bản địa gắn với làng nghề, nghề truyền thống.
Liên quan đến đổi mới sản phẩm du lịch, khai thác sâu các điểm đến và đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các địa phương, điểm đến, bà Tạ Thị Tú Uyên, Ban Sản phẩm và dịch vụ, Công ty Du lịch và Tiếp thị giao thông vận tải Việt Nam (Vietravel) cho rằng, để thu hút du khách trong giai đoạn hiện nay, sản phẩm du lịch cần có sự hoàn thiện, thay đổi. Các đơn vị cần lựa chọn sản phẩm theo hướng gia tăng trải nghiệm, xây dựng sản phẩm theo chiều sâu văn hóa, phát huy thế mạnh độc đáo của tài nguyên du lịch, đồng thời tạo tính liên kết chặt chẽ giữa các không gian và sản phẩm trong suốt hành trình để tạo nên cảm xúc, ấn tượng cho du khách sau mỗi chuyến đi.
Bài: Thanh Trà
Ảnh: Mạnh Linh - TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Hà Phương
Trình bày: Hà Nguyễn
11/09/2022 06:55