Các tỉnh, thành phố ven biển Việt Nam chiếm hơn 50% dân số cả nước, phần lớn lao động làm việc trong các ngành nghề liên quan đến biển; đóng góp của 28 tỉnh, thành phố ven biển vào GDP cả nước hiện đã vượt ngưỡng 60%. Hiện nay, sau những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, kinh tế ven biển và các ngành kinh tế biển càng có vai trò quan trọng trong việc phục hồi các hoạt động kinh tế - xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Các vùng biển, đảo của Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú, đa dạng, bao gồm khoảng 12.000 loài sinh vật sống trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái đặc trưng, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Biển Việt Nam được coi là 1 trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới. Trong các vùng biển của Việt Nam, có khoảng 35 loại hình khoáng sản với quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm: Nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và khoáng sản lỏng... Tiềm năng dầu khí phân bố trong các bồn trầm tích ở thềm lục địa và khu vực biển Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam rất lớn.
Các vùng biển, đảo Việt Nam là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng với hơn 120 bãi biển có thể phát triển du lịch, trong đó khoảng 20 bãi có quy mô và tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt, Vịnh Hạ Long đã được UNESCO xếp hạng là Di sản thiên nhiên Thế giới.
Vùng biển và ven biển là đối tượng chịu nhiều rủi ro về thiên tai biển, các hiện tượng thời tiết cực đoan và hậu quả do biến đổi khí hậu như bão và nước dâng trong bão, được đánh giá có nhiều khả năng chịu tác động của biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương. Theo Ngân hàng Thế giới, nước biển dâng 5m sẽ khiến Việt Nam mất 16% diện tích đất liền, đe dọa 35% dân số và 35% tổng sản phẩm quốc nội; các vùng đất thấp ven biển, các rạn san hô vòng cùng hàng loạt hệ sinh thái và cơ sở hạ tầng bị phá hủy do ngập lụt. Đời sống kinh tế, văn hóa của người dân Việt Nam luôn gắn liền với biển và biển được coi là không gian sinh tồn, phát triển và an ninh của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phát triển bền vững kinh tế biển đã trở thành nhu cầu tất yếu trong quá trình phát triển.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đã tăng gấp 4 lần trong 20 năm qua. Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tạo ra cả các tác động tích cực và tiêu cực trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Các tác động tích cực đã tạo việc làm, thu nhập bền vững, cải thiện mức độ dinh dưỡng, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội và góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, đảm bảo an ninh lương thực cho các cộng đồng vùng ven biển và hải đảo; đồng thời cũng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ tham gia vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ thủy sản.
Tuy nhiên, do nuôi trồng thủy sản có sử dụng nhiều tài nguyên nước và khi không được quản lý tốt thì có thể tạo ra các tác động tiêu cực đến môi trường như: Ô nhiễm hữu cơ, xâm nhập mặn, hay đánh bắt bằng các ngư cụ kém chọn lọc sẽ dẫn đến suy giảm nguồn lợi thuỷ sản, suy giảm chất lượng các hệ sinh thái và môi trường biển.
Theo Báo cáo “Kinh tế biển xanh Việt Nam - Cơ hội và thách thức” do Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện) vừa công bố ngày 12/5/2022, hoạt động kinh tế biển ở Việt Nam rất đa dạng, có thể chia thành các hoạt động kinh tế đều diễn ra trên biển (kinh tế hàng hải, đánh bắt và nuôi trồng hải sản; khai thác dầu khí ngoài khơi; du lịch biển; làm muối; dịch vụ tìm kiếm, cứu nạn...) và các hoạt động kinh tế không diễn ra trên biển nhưng liên quan trực tiếp đến khai thác biển (đóng mới và sửa chữa tàu thuyền; công nghiệp chế biến dầu khí; công nghiệp chế biến thủy sản; cung cấp dịch vụ biển; nghiên cứu khoa học và công nghệ biển, điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển...).
Việt Nam có tiềm năng cho việc phát triển công nghiệp dầu khí lâu dài và bền vững. Lĩnh vực dầu khí đóng góp đáng kể cho GDP và ngân sách, góp phần cung cấp nguồn lực để xóa đói, giảm nghèo, đầu tư phát triển các vùng sâu, vùng xa, vì vậy cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài và hành lang pháp lý thuận lợi để huy động nguồn lực trong nước cho phát triển.
Ngoài ra, Việt Nam được đánh giá có nguồn điện từ gió ngoài khơi, thủy triều, sóng biển và dòng hải lưu rất lớn nếu được khai thác, sẽ đóng góp thiết thực cho mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh. Nếu được quản lý tốt, năng lượng gió ngoài khơi sẽ có đóng góp quan trọng đến mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Hơn thế nữa, phát triển điện gió ngoài khơi còn là lĩnh vực có thể hỗ trợ đáng kể và đóng góp tích cực trong thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (COP 21) và cam kết đạt phát thải ròng carbon bằng “0” vào năm 2050 (COP 26).
Du lịch ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó du lịch biển có vai trò chủ đạo, chiếm khoảng 2/3 tỷ trọng của toàn ngành. Nguồn tài nguyên du lịch dọc bờ biển Việt Nam rất phong phú, đa dạng và có giá trị, là nền tảng phát triển nhiều loại hình du lịch như tham quan, vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, thể thao và văn hóa... Nếu được quản lý, vận hành tốt, du lịch biển có thể mang lại những hiệu quả hết sức tích cực, ngược lại, du lịch cũng có thể trở thành tác nhân của những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường, xã hội và cộng đồng.
Các hệ sinh thái biển chính của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ suy giảm về số lượng và chất lượng do các tác động tổng hợp và đa dạng. Sự thay đổi diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam theo hai xu hướng gồm: Giảm diện tích rừng nguyên sinh và tăng diện tích rừng trồng mới. Đến nay, những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn, dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học biển, đặc biệt là mất bãi đẻ và môi trường sống cho các loài thủy sinh, phá hủy các hệ sinh thái lân cận như hẹ và cỏ biển. Các rạn san hô ở biển Việt Nam đang giảm về diện tích và độ che phủ của san hô sống theo thời gian, có nơi lên đến hơn 30% trong 10 năm qua. Hệ sinh thái cỏ biển cũng đang bị suy thoái, giảm diện tích do các hoạt động của con người như đánh bắt, neo đậu tàu thuyền, nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm môi trường, hoạt động xây dựng cảng và các công trình du lịch.
Theo số liệu quan trắc của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), chất lượng dữ liệu môi trường biển Việt Nam vẫn tốt, chỉ số ô nhiễm trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, các khu vực ven biển, cửa sông có nguy cơ ô nhiễm cao, đã xảy ra các sự cố ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng. Điển hình năm 2016 là vụ xả nước thải của doanh nghiệp Hưng Nghiệp Formosa gây ô nhiễm bờ biển Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Sự cố tràn dầu vẫn diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nguy cơ cao đối với vùng biển Việt Nam. Tình trạng ô nhiễm do rác thải, nước thải từ đất liền và các hoạt động kinh tế - xã hội ven biển vẫn chưa được ngăn chặn triệt để, trong đó rác thải và ô nhiễm nhựa đáng báo động, gây tổn hại và suy thoái các hệ sinh thái ven biển.
Để tiến tới kinh tế biển xanh, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp như: Bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và mở rộng các dịch vụ hệ sinh thái nâng cao tiềm năng cho các hoạt động kinh tế (du lịch biển, thủy sản, năng lượng tái tạo...), xây dựng hệ sinh thái rừng ngập mặn giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Nền kinh tế biển xanh có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Một phần của thách thức đối với việc quản lý đại dương là thúc đẩy lợi ích của nhiều mục tiêu phát triển bền vững từ các lĩnh vực biển. Vì vậy, việc thiết lập các chính sách và quy định phù hợp sẽ giúp lấp đầy các tiềm năng còn bỏ ngỏ trong phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam.
Tiến sỹ Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhận định, thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện nay vẫn chưa bền vững. Phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Ô nhiễm, sự cố môi trường ở một số nơi tại các vùng biển và ven biển còn diễn ra nghiêm trọng, ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm; một số tài nguyên biển bị khai thác chưa bền vững…
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có tiềm lực khoa học - công nghệ biển thấp, hơn nữa, công nghệ sản xuất “xanh” lại là loại công nghệ mới, giá đắt nên doanh nghiệp khó tiếp cận. Sự hạn chế về tiềm lực kinh tế và khoa học - công nghệ biển dẫn đến công tác điều tra, thăm dò tài nguyên biển còn yếu và thiếu; nguồn nhân lực thiếu trong sản xuất các loại thiết bị truyền thống phục vụ phát triển kinh tế biển như đóng tàu, xây dựng bến cảng…
Bên cạnh những khó khăn, hạn chế, kinh tế biển xanh Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển. Theo ông Lưu Anh Đức, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Hợp tác quốc tế, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, xu hướng phát triển kinh tế biển xanh trên thế giới giúp thúc đẩy sự phát triển chung của các nước, trong đó có Việt Nam. Thế giới xem thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương với cách tiếp cận mới, trong đó nhấn mạnh yếu tố phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời thích ứng tốt hơn với tình trạng biến đổi khí hậu trên quy mô toàn cầu. Các quốc gia đi tiên phong trên thế giới đã đưa ra những chương trình phát triển kinh tế xanh nói chung và kinh tế biển xanh nói riêng, trong đó nhấn mạnh đến các nội dung: Sản xuất xanh, công nghiệp xanh - sử dụng các công nghệ kỹ thuật sản xuất xanh, sử dụng năng lượng tái tạo, giảm bớt ô nhiễm môi trường; tiêu dùng xanh - xây dựng lối sống xanh, bảo vệ và sống hài hòa với môi trường thiên nhiên.
Bên cạnh đó, lĩnh vực khoa học - công nghệ để phát triển kinh tế biển xanh trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, tạo nền tảng để thực hiện phát triển kinh tế biển xanh và bảo vệ môi trường biển hiệu quả. Các quốc gia trên thế giới đang tiến rất nhanh trong việc sáng tạo công nghệ phát triển kinh tế biển xanh. Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học - công nghệ để phát triển kinh tế biển xanh trên thế giới cũng đem lại cơ hội tốt cho tất cả quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam.
Từ thực tế kinh nghiệm thế giới về phát triển kinh tế biển xanh và trên cơ sở nhu cầu phát triển bền vững kinh tế biển quốc gia, Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nội dung Nghị quyết khẳng định: Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước...
Nghị quyết 36-NQ/TW cũng nêu rõ mục tiêu phát triển kinh tế biển bền vững đến năm 2030 gồm các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển…
Nghị quyết 36-NQ/TW cũng xác định các khâu “đột phá” là: Hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển, ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới, phát triển mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển; hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển. Đồng thời, phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao.
Cùng với đó, phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa các vùng trong nước và với quốc tế.
Tại hội nghị lần thứ 26 của các bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Việt Nam đã đưa ra những cam kết khí hậu và các quy định môi trường chặt chẽ khi công bố mục tiêu khí hậu của Việt Nam đạt trung hòa carbon vào năm 2050. Theo đó, định hướng của Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội theo hướng xanh và bền vững, không thỏa hiệp với chất lượng môi trường và hệ sinh thái.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam cho rằng, để phát triển kinh tế biển xanh đòi hỏi tiếp tục cải cách thể chế như xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển trên cơ sở tư duy phát triển kinh tế biển xanh nhằm xác định những định hướng cơ bản, lâu dài cho việc khai thác tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển, đảm bảo phát triển các ngành kinh tế biển một cách bền vững; thống nhất trong quản lý phát triển kinh tế biển giữa các bộ, ngành, cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương; tăng cường xây dựng hệ thống thông tin tài nguyên, môi trường và thông tin kinh tế biển…
Phát triển kinh tế biển xanh là một định hướng quan trọng trong số các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để hướng đến mục tiêu cao hơn như mục tiêu cam kết trung hòa carbon vào năm 2050, cần tận dụng tốt các cơ hội để vừa phát triển bền vững kinh tế biển, vừa bảo vệ được tài nguyên biển cho sự phát triển của tương lai.
Bài: Hoàng Nam
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Hà Phương
Trình bày: Hà Nguyễn
05/06/2022 05:30