Chuyển đổi số đang là yêu cầu cấp thiết, xu hướng tất yếu với tất cả các lĩnh vực trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã ảnh hưởng sâu sắc trên toàn cầu, trong đó có văn hóa, di sản. Số hóa di sản đã không còn xa lạ trên thế giới, Việt Nam đã tiếp cận xu hướng này từ lâu và chuyển đổi số chính là cầu nối hữu hiệu đưa các di sản đến gần hơn với cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, du lịch đang diễn ra liên tục, các công nghệ mới được ứng dụng thường xuyên. Theo đánh giá của các chuyên gia văn hóa, việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, du lịch đã phát huy hiệu quả tích cực, giúp người xem tiếp cận di sản văn hóa theo nhiều cách khác nhau. Việc này là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển, đáp ứng nhu cầu thưởng thức, tìm hiểu của công chúng, du khách.
Bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) khẳng định: Xu thế hiện nay của bảo tàng trên thế giới không còn dừng lại ở việc trưng bày truyền thống. Các ứng dụng khoa học - công nghệ như 2D, 3D, số hóa hiện vật, cổ vật... đã tạo hiệu ứng sinh động, tương tác với người xem. Bảo tàng ở Việt Nam đã có tìm tòi, đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ vào trưng bày, triển lãm theo xu hướng thế giới.
Trưng bày không chỉ online mà còn kết hợp các phương thức số hóa, tạo phong cách mới cho du khách tiếp cận. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh... là những nơi đi đầu thực hiện.
Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Nguyễn Văn Hà cho biết: Là bảo tàng đầu tiên ở Việt Nam ứng dụng công nghệ trong các hoạt động giới thiệu trưng bày, giáo dục, từ năm 2013, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã ứng dụng công nghệ thực tế ảo 3D giới thiệu nhiều chuyên đề như “Di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam”, “Đèn cổ Việt Nam” và “Linh vật Việt Nam”…
Tháng 9/2021, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã ra mắt trưng bày tương tác ảo 3D chuyên đề “Bảo vật quốc gia”. Đây là trưng bày xây dựng hoàn toàn không dựa trên không gian trưng bày thực, thu hút nhiều du khách tham quan trải nghiệm, tương tác. Du khách được chiêm ngưỡng hình ảnh các bảo vật quốc gia từ nhiều góc độ.
Tương tác 3D hiện vật là hoạt động thu hút công chúng nhiều nhất. Trên không gian 3D, trống đồng Ngọc Lũ không còn xuất hiện ở trạng thái tĩnh hay hình ảnh đen xám hai chiều mà mọi góc độ của hiện vật được hiện lên, rõ từng chi tiết, hoa văn. Những chi tiết hoa văn, nội dung tiêu biểu, quan trọng được đánh số, tương tác hiện lên những thông tin chi tiết giúp người xem có thể tìm hiểu kỹ càng. Đây là cách thức mà khi tham gia trưng bày thông thường công chúng không thể cảm thụ hết được.
Để tiếp cận với trưng bày này, công chúng thường truy cập trực tiếp từ trang website, Facebook bảo tàng, tìm kiếm trên internet… Người dùng truy cập nhiều nhất từ các quốc gia, vùng lãnh thổ: Việt Nam (tăng mạnh), Mỹ, Anh, Australia, Pháp, Hong Kong (Trung Quốc), Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia… Tương tác trải nghiệm xoay 3D được khách sử dụng nhiều nhất và luôn đạt 100% khách truy cập sử dụng tính năng này.
Sau hơn 1 năm giới thiệu, trưng bày tương tác ảo 3D chuyên đề “Bảo vật quốc gia” đã thu hút đông đảo lượng khách tham quan. Tính từ tháng 10/2021 đến tháng 10/2022, lượng khách truy cập đạt 58.661 lượt. Đặc biệt, tháng 10/2022, số lượng khách truy cập lên tới 6.216 người, do công chúng có nhu cầu tìm hiểu thông tin bảo vật quốc gia và trải nghiệm Tháng Chuyển đổi số. Có thể nói, tương tác ảo 3D thực sự là hình thức phù hợp và đáp ứng tốt nhu cầu công chúng là những người trẻ tuổi hoặc học tập, làm việc gắn với mạng internet.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng khẳng định: Việt Nam tự hào là một quốc gia dồi dào, đa dạng về di sản văn hóa. Nước ta có lực lượng lao động sáng tạo trẻ đầy hoài bão khát vọng, phát huy hiệu quả mọi nguồn lực vào hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống cộng đồng nơi có di sản hoặc nắm giữ, thực hành di sản, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và đất nước nói chung.
Với nguồn tài nguyên di sản phong phú, đa dạng và có giá trị quan trọng, đến nay, Việt Nam đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận 8 di sản thế giới, trong đó có 5 di sản văn hóa, 2 di sản thiên nhiên và 1 di sản hỗn hợp. Ngoài ra, Việt Nam có 14 di sản phi vật thể đã được UNESCO ghi danh. Qua thời gian bảo tồn và phát huy, các di sản này đã trở thành những điểm thu hút khách du lịch hàng đầu, góp phần rất quan trọng tạo nên thương hiệu và sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam trên trường quốc tế.
Đặc biệt, Tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới World Travel Awards đã 3 lần bình chọn Việt Nam là “Điểm đến Di sản hàng đầu thế giới”; khẳng định sức cuốn hút hàng đầu về tài nguyên di sản của nước ta với cộng đồng quốc tế. Đồng thời, cũng là minh chứng cho những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản đất nước. Qua đó, định vị thương hiệu điểm đến quốc gia, nâng cao vị thế du lịch Việt Nam, quảng bá rộng rãi những tiềm năng, thế mạnh đặc sắc của du lịch Việt Nam ra thế giới.
Là cơ quan quản lý du lịch quốc gia, từ đầu năm 2021, Tổng cục Du lịch đã phối hợp với Google triển khai dự án “Google Arts & Culture: Kỳ quan Việt Nam”, quảng bá các giá trị di sản vật thể và phi vật thể nổi bật như: Sơn Đoòng, Hội An, Mỹ Sơn, di sản cung đình Huế… Đây là một sáng kiến hữu ích, có thể xem như một cửa sổ khoe sắc của các nền văn hóa, giúp người xem có thể tiếp cận được văn hóa nghệ thuật theo cách thức mới mẻ và thú vị. Nền tảng số Google Arts & Culture được mệnh danh là “bảo tàng số của nhân loại”, lưu giữ, giới thiệu các giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử đặc sắc của các quốc gia trên thế giới. Tháng 6/2022, Tổng cục Du lịch tiếp tục phối hợp với Google tổ chức chương trình giới thiệu nền tảng này tới các sở quản lý du lịch, khu di tích, di sản, điểm du lịch, cơ sở đào tạo du lịch.
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Phạm Văn Thủy cho rằng: Việt Nam có gần 8.000 lễ hội, mỗi lễ hội gắn với một di sản, di tích nhất định ở các địa phương. Đó chính là nguồn tài nguyên to lớn để phát triển du lịch, điều quan trọng là các địa phương, đơn vị du lịch phải biết cách khai thác, biến nguồn tài nguyên đó thành “hàng hóa văn hóa”, trên cơ sở đó chúng ta phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ văn hóa của Việt Nam. Chuyển đổi số là cách thức quan trọng nhằm quảng bá văn hóa, hình ảnh đất nước Việt Nam an toàn, thân thiện, mến khách đến với bạn bè quốc tế. Quan điểm xuyên suốt của ngành Du lịch là tôn trọng nguyên tắc phát triển bền vững khi bảo tồn và phát huy các giá trị di sản trong phát triển du lịch.
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 nêu rõ: “Đổi mới, hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, đẩy nhanh thực hiện quá trình chuyển đổi số trong ngành Du lịch; số hóa các thông tin, tài liệu về điểm đến, xây dựng các kho nội dung số, hướng tới hình thành và phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh”.
Tổng cục Du lịch đã tập trung vào giải pháp nền tảng để phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh ở Việt Nam, hỗ trợ các địa phương, điểm đến, doanh nghiệp du lịch, khách du lịch tham gia vào hệ sinh thái…
Tổng cục Du lịch tận dụng tối đa các nền tảng số như website, mạng xã hội, ứng dụng thông minh bên cạnh việc phát huy sự chủ động, sáng tạo của địa phương, khu, điểm du lịch trong ứng dụng công nghệ để quảng bá sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi cho du khách nhất là du khách quốc tế khi tìm kiếm thông tin, cần có giải pháp tích hợp các nền tảng số của các điểm đến vào các kênh e-marketing ở tầm quốc gia của Tổng cục Du lịch, trong đó đặc biệt là website https://vietnam.travel/ và các tài khoản trên mạng xã hội như Facebook, Instagram, YouTube, Tiktok và Pinterest quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam ra thế giới.
Đầu tháng 12/2021, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký Quyết định phê duyệt chương trình “Số hóa di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030” nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa trên nền tảng công nghệ số thống nhất, phục vụ công tác lưu trữ, quản lý, nghiên cứu, bảo tồn, khai thác, quảng bá di sản, thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.
Chương trình đặt mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2021 - 2030: 100% các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh; 100% các di tích quốc gia đặc biệt, 100% bảo vật quốc gia, di sản trong Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số (ưu tiên số hóa theo nhu cầu sử dụng của xã hội các di tích quốc gia và các hiện vật, nhóm hiện vật tại các bảo tàng, Ban Quản lý di tích). Cùng với đó, 100% người làm công tác chuyên môn trong ngành Di sản Văn hóa được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật các kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số.
Các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, bảo tàng và di sản tư liệu của các dân tộc Việt Nam được số hóa bao gồm: Hồ sơ, tư liệu, bảo vật quốc gia, hiện vật quý của các bảo tàng và di tích, di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia có giá trị tiêu biểu, di sản văn hóa phi vật thể trong danh mục kiểm kê di sản. Cùng với đó là các Di sản Văn hóa và thiên nhiên thế giới, thực hành Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia; Di sản phi vật thể được UNESCO ghi danh và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh đang được bảo quản, lưu giữ tại trung tâm ngân hàng dữ liệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, của bộ, ngành, tổ chức chính trị trên toàn quốc.
Bà Huỳnh Phương Loan, Phòng Tư liệu, thông tin và đào tạo, Viện Bảo tồn di tích chia sẻ: Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu nhất để duy trì, gìn giữ, phát huy và nâng tầm các giá trị di sản, văn hóa truyền thống. Trên thế giới, công nghệ thực tế ảo đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực bảo tồn di tích, đặc biệt trong việc tái hiện, phục dựng các di tích, thắng cảnh đến nay không còn quá mới mẻ. Hầu hết các di tích lớn như đấu trường La Mã, lăng tẩm Ai Cập cổ đại, cố đô Nara (Nhật Bản), Đại Minh cung (Trung Quốc), đền Ananda Ok Kyaung (Bagan, Myanmar), cung điện Al Azem Palace (Damascus, Syria), thành phố cổ Chichen Itza (Mexico)... đều đã ứng dụng công nghệ này. Gần đây, việc nghiên cứu xây dựng mô hình phục dựng điện Kính Thiên (Hoàng thành Thăng Long) phục vụ công tác phục dựng đã thu hút đông đảo công chúng quan tâm.
Viện Bảo tồn di tích đã thực hiện số hóa di tích, trong đó tập trung vào việc số hóa các dữ liệu liên quan tới di tích, công tác bảo tồn di tích, số hóa 2D - 3D đối với một số di tích tiêu biểu. Hệ thống cơ sở dữ liệu này đã được công bố trên website Ngân hàng dữ liệu số về di tích và công tác bảo tồn di tích với dữ liệu của 4.000 di tích, thu hút đông đảo người xem.
Điều đáng mừng là hiện nay tại nhiều địa phương đã bước đầu triển khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản. Tiêu biểu như Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai ứng dụng (app) hướng dẫn tham quan "Di tích Huế"; ứng dụng công nghệ trải nghiệm thực tế ảo VR 3D trong hoạt động tham quan tại Hoàng Thành Thăng Long…; số hóa các tài liệu Hán Nôm các văn bản, tư liệu Hán Nôm sưu tầm tại các di tích. Đây là thành tựu bước đầu, tạo cơ sở cho việc chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích.
Có thể nói rằng, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu nhất để duy trì, gìn giữ, phát huy và nâng tầm các giá trị di sản, văn hóa truyền thống, đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch vụ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cục trưởng Cục Di sản (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Lê Thị Thu Hiền cho biết, nhận thức của các cấp về số hóa, chuyển đổi số xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đã được nâng cao. Việc chuyển đổi số trong bảo vệ, phát huy giá trị di sản đã đạt nhiều kết quả. Tuy vậy, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản vẫn còn nhiều khó khăn. Đó là việc xây dựng kho dữ liệu chưa thường xuyên, liên tục và bền vững; chưa tính đến việc liên kết dữ liệu để cùng khai thác đáp ứng được nhu cầu phát triển. Phần mềm dùng chung chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Cơ sở dữ liệu được xây dựng và vận hành độc lập với ứng dụng công nghệ khác nhau, quản lý, khai thác riêng, chưa có liên kết và phân cấp quản lý, khai thác. Nguyên nhân là do nguồn nhân lực còn mỏng chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn lực đầu tư quá ít, không đảm bảo sự đồng bộ…
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam là một trong những đơn vị tiên phong trong việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể thông qua thu thập tài liệu văn bản, ghi hình, ghi âm các tư liệu hình ảnh động về loại hình văn hóa bằng thiết bị camera chuyên dụng, thiết bị ghi âm từ những thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Hàng nghìn dự án sưu tầm, bảo tồn về các hình thức diễn xướng, lễ hội truyền thống, nghề thủ công, nghi lễ vòng đời người của các dân tộc Việt Nam đang được lưu trữ tại Viện. Muốn phát huy và khai thác hiệu quả nguồn dữ liệu quý giá đó cần phải số hóa (chuyển đổi dữ liệu thành các file số có thể đọc được từ máy vi tính). Với khả năng ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số quốc gia, kho dữ liệu di sản văn hóa của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam có thể trở thành một sản phẩm chủ lực của ngành trong thời gian tới.
Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành sản phẩm thực tế, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam cho rằng cần thực hiện đồng bộ 10 giải pháp cơ bản. Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố đầu tiên và quan trọng. Theo đó, hoạt động đào tạo, nâng cao nhận thức, chuyển đổi tư duy về chuyển đổi số của cán bộ nghiên cứu, kỹ thuật viên của Viện phải được thực hiện trước, tập trung kiến thức về cơ sở dữ liệu lớn, kỹ thuật, công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như cách thức phát huy, bảo vệ bản quyền đối với những tài liệu số hóa của Viện.
Tiếp đó là việc nâng cấp, bổ sung kho dữ liệu di sản văn hóa của Viện, kết nối với các kho dữ liệu di sản khác trong phạm vi cả nước và tham gia vào hệ thống thông tin di sản quốc tế. Để làm được như vậy, Viện cần có chiến lược sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể, biến thành kho dữ liệu số, có khả năng kết nối và mang tính tương tác. Hệ thống máy móc, trang thiết bị, kết nối internet, bảo vệ bản quyền… cũng phải nhằm bảo đảm quyền lợi của kho dữ liệu trên môi trường số.
Bên cạnh đó, để phát huy giá trị kho dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể cần đến ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR). Công nghệ này giúp nâng cao giáo dục, bảo tồn di sản, truyền cảm hứng học hỏi, chia sẻ ý tưởng, tri thức về di sản văn hóa, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể. Do đó, Trung tâm dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể của Viện cần được trang bị công nghệ, đặc biệt là nhân lực để vận hành các dự án ứng dụng công nghệ thực tế ảo…
Trung tâm Dữ liệu di sản văn hóa nói riêng và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam nói chung cần sự hợp tác, liên kết chặt chẽ với các đơn vị quản lý di tích, bảo tàng, đơn vị có các dữ liệu di sản khác, góp phần tạo thành một hệ thống đồng bộ của chuyển đổi số đối với lĩnh vực di sản.
Bài: Thanh Giang
Ảnh, đồ họa: TTXVN - TTXVN phát
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Hà Nguyễn
26/11/2022 05:55