Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong những năm qua, nền tư pháp nước ta đã có bước phát triển, đạt nhiều kết quả tích cực. Đây là một trong những bước quan trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhằm mục tiêu tối thượng là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Theo Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, chủ trương cải cách tư pháp của Ðảng đã thật sự đi vào đời sống, tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Hoạt động tư pháp đã góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.
Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tập trung vào việc hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp; cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm là tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
Để đạt được điều này, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có sự thay đổi quyết liệt trong nhận thức cũng như hành động, từ quá trình thu thập chứng cứ đến việc phân tích, nhận định hành vi đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, những hoạt động này được tiến hành một cách thận trọng, chặt chẽ, góp phần giảm oan sai, tránh bỏ lọt tội phạm. Ở mỗi giai đoạn tố tụng, các cơ quan tư pháp đã có những bước đi riêng, phù hợp với tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn. Cơ quan điều tra tiến hành xử lý kịp thời, thận trọng, nghiêm minh các loại tội phạm. Viện Kiểm sát thực hiện tích cực công tác phối hợp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Tòa án đẩy mạnh cải cách tư pháp qua hoạt động tranh tụng công khai tại phiên tòa không hạn chế thời gian và số lần các bên tham gia đối đáp; đa dạng các biện pháp chứng minh hành vi vi phạm qua các hình thức công bố lời khai, trình chiếu chứng cứ ngay tại phiên tòa…
Một trong những ví dụ điển hình của việc quyết liệt và thận trọng trong điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng là vụ án Tổng Công ty Viễn thông MobiFone (MobiFone) mua 95% cổ phần của Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn Cầu (AVG). Sau khi khởi tố vụ án, cơ quan tố tụng xác định giá trị hợp đồng mua bán cổ phần giữa MobiFone với AVG là gần 9.000 tỷ đồng, cao hơn giá trị thật của AVG rất nhiều lần, gây thiệt hại trực tiếp làm mất vốn nhà nước tại MobiFone với số tiền gần 6.600 tỷ đồng. Từ việc phân tích, với số tiền thất thoát nhiều như vậy, sẽ không chỉ dừng lại ở hành vi "Vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng" mà có thể có những hành vi khuất tất đằng sau bản hợp đồng mua bán cổ phần này…, các cơ quan tố tụng đã định hướng điều tra, mở rộng vụ án.
Mặc dù, việc điều tra được tiến hành quyết liệt nhưng các cơ quan tố tụng cũng rất thận trọng trong việc đánh giá chứng cứ vụ án này. Quá trình điều tra các bị cáo về hành vi “Vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng", ngày 13/10/2018, Lê Nam Trà (nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên MobiFone) đã đầu thú, tự khai ra việc nhận 2,5 triệu USD từ Phạm Nhật Vũ (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị AVG) và tự nguyện nộp lại đầy đủ số tiền này. Ngày 13/10/2018, Lê Nam Trà có bản cung tự khai đầu tiên về hành vi nhận hối lộ, nhưng tới ngày 12/4/2019, Cơ quan điều tra mới quyết định khởi tố về hành vi đưa và nhận hối lộ, thể hiện sự thận trọng trong việc đánh giá chứng cứ của các cơ quan tố tụng.
Từ định hướng đó, cùng với những nỗ lực đấu tranh tội phạm, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã phối hợp phát hiện, làm rõ hành vi tham nhũng trong vụ án này với số tiền đưa và nhận hối lộ đặc biệt lớn. Đây chính là khó khăn, phức tạp lớn nhất mà cơ quan tố tụng đã từng bước tháo gỡ, biến vụ án từ phức tạp trở thành đơn giản. Qua đó, thu hồi được số tiền lớn về cho Nhà nước và trở thành vụ án điển hình về khắc phục hậu quả, từ giai đoạn thanh tra, kiểm tra đã thu hồi hơn 8.000 tỷ đồng, số tiền đưa hối lộ và hối lộ đã được thu hồi.
Trong tố tụng hình sự, việc quyết định khởi tố vụ án hay không khởi tố vụ án khi có những dấu hiệu phạm tội là thuộc về quyền và trách nhiệm của cơ quan tố tụng. Quyết định này được xuất phát từ lợi ích của Nhà nước và xã hội (lợi ích công) mà không phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của tổ chức, cá nhân riêng rẽ nào. Cơ quan có thẩm quyền tố tụng tiến hành khởi tố vụ án, làm khởi động cơ chế truy cứu trách nhiệm hình sự, thực hiện trách nhiệm công khai của Nhà nước, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước theo những thủ tục bắt buộc chung nhằm duy trì pháp chế, trật tự pháp luật và công lý. Vấn đề đặt ra là khi trao quyền lực cho các cơ quan tố tụng như vậy, cần phải có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, nhằm ngăn chặn sự lợi dụng quyền lực để thực hiện hành vi sai trái vì mục đích riêng.
Đối với việc kiểm soát quyền lực, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhắc lại “phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế”. Đây được coi là một trong những giải pháp quan trọng để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín… Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, hoạt động của 3 cơ quan tố tụng: Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án đã được quy định rõ ràng, chặt chẽ tại các văn bản quy phạm pháp luật.
Theo ông Đào Thịnh Cường (Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội) phân tích, các cơ quan tố tụng này được phân công, phân nhiệm, trực tiếp giám sát, chi phối lẫn nhau trong suốt quá trình từ khi khởi tố, đến điều tra, truy tố và đưa ra xét xử. Trong đó, vai trò của Viện Kiểm sát là khá quan trọng đối với việc kiểm soát quyền lực. Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, có mặt trong các buổi hỏi cung của cơ quan điều tra, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án, kiểm sát việc xét xử vụ án… Cơ quan Tòa án là “chốt chặn” việc bỏ lọt tội phạm, phòng ngừa oan sai thông qua việc tăng cường tranh tụng công khai tại phiên tòa, đảm bảo quyền bình đẳng cho các bên tham gia tố tụng, cân nhắc toàn diện các chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa… Qua đó, đảm bảo sự bình đẳng của các bên trong tố tụng hình sự, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, cảm hóa và tạo sự chuyển biến tích cực, nâng cao nhận thức pháp luật của các bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng.
Ở mỗi vụ án, các cơ quan tố tụng đều chú trọng phân hóa vai trò của các bị can, bị cáo, nhằm làm rõ mức độ, vai trò hành vi phạm tội, qua đó xác định trách nhiệm hình sự của mỗi người. Việc phân hóa này sẽ giúp đánh giá hành vi, vai trò của ai cao, ai thấp, trách nhiệm của ai nặng, ai nhẹ... một cách khách quan, công tâm. Đây cũng chính là một bước nhằm chuyển biến vụ án từ phức tạp trở nên đơn giản hơn, rõ ràng hơn.
Để phân hóa vai trò chính xác, đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải nắm bắt rõ bản chất vụ án, diễn biến tâm lý, vai trò thực hiện hành vi phạm tội của từng bị can, bị cáo. Qua đó, bản thân bị can, bị cáo nhận thức rõ hơn mức độ hành vi vi phạm, hậu quả gây ra và trách nhiệm hình sự của bản thân. Họ nhận thấy sự loanh quanh, chối tội làm phức tạp thêm vụ án, khiến cho hành vi của họ cũng vì thế mà phức tạp theo, giảm cơ hội được xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ hành vi, giảm nhẹ hình phạt. Từ nhận thức này, họ đã chủ động có ý thức hợp tác với cơ quan điều tra, truy tố, xét xử; thừa nhận hành vi vi phạm, thừa nhận cáo trạng và bản luận tội, thậm chí có trường hợp còn thừa nhận cả mức án mà Viện Kiểm sát đề nghị là đúng.
Để đạt được điều này, rõ ràng việc khởi tố, điều tra của cơ quan Công an phải đúng người, đúng tội; cáo trạng và bản luận tội của Viện Kiểm sát phải thuyết phục được các bị cáo, các luật sư; việc xét xử phải được tiến hành một cách công tâm, khách quan. Một người khi đối diện với một lời buộc tội mà người đó phải thừa nhận lời buộc tội đó là đúng chính là sự chuyển biến về mặt nhận thức của cá nhân người đó. Sự chuyển biến này không chỉ có giá trị trong việc đánh giá tình tiết giảm nhẹ cho chính bị cáo mà còn có tác động tích cực đối với các đồng phạm trong vụ án, cũng như có tác dụng cải tạo, giáo dục chung cho xã hội.
Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án giết người và chống người thi hành công vụ xảy ra tại xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), không bị cáo nào kêu oan, các bị cáo đều nhận ra sai phạm, thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, hưởng khoan hồng của pháp luật. Đa số các bị cáo đều bày tỏ sự ăn năn, hối hận, xin lỗi gia đình ba cán bộ, chiến sĩ Công an đã hy sinh. Sáu bị cáo đề nghị các luật sư không tiếp tục bào chữa cho mình nữa, mong muốn được dừng vụ án ở đây. Điều đáng nói, trước phiên tòa sơ thẩm, cả sáu bị cáo này và gia đình bị cáo đều chủ động mời luật sư bào chữa.
Sau khi cảm ơn các luật sư đã tham gia bảo vệ cho mình, bị cáo Lê Đình Doanh xin được dừng, không cần các luật sư bào chữa cho bị cáo nữa. Bị cáo Doanh xin được hưởng khoan hồng của Nhà nước, được trở về làm công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo Nguyễn Quốc Tiến khẳng định không mời và cũng không cần luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo Bùi Thị Đục thừa nhận đã sai và xin các luật sư dừng bào chữa cho bị cáo, bị cáo hứa sau này sẽ không làm việc gì sai với pháp luật, với Đảng, Nhà nước. Hai bị cáo: Đào Thị Kim, Trần Thị Phượng cảm ơn các luật sư đã bào chữa cho mình, bản thân các bị cáo đã nhận rõ tội lỗi của mình và xin các luật sư không tiếp tục bào chữa cho bị cáo nữa…
Trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Hà Nội (CDC Hà Nội), nhiều bị cáo nguyên là cán bộ, nhân viên của CDC Hà Nội đã thừa nhận hành vi vi phạm. Bị cáo Nguyễn Nhật Cảm (nguyên Giám đốc CDC Hà Nội) thừa nhận việc chỉ định thầu và thực hiện quy trình đấu thầu không đúng luật. Các bị cáo khác thừa nhận đã làm sai quy trình đấu thầu do bị thúc ép về mặt thời gian, thừa nhận đã thực hiện hành vi sai phạm khi xử lý các tài liệu trong hồ sơ của gói thầu…
Khi nói lời sau cùng tại phiên tòa, hầu hết các bị cáo này đều bày tỏ sự cảm ơn Hội đồng xét xử đã điều hành phiên tòa một cách công tâm, thực hiện tranh tụng dân chủ, công khai theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết số 49-NQ/TW. Qua đó, giúp các bị cáo thức tỉnh, nhận ra lỗi lầm và ân hận về hành vi của mình. Việc các bị can, bị cáo tự giác khai nhận và tự nguyện khắc phục hậu quả đã chứng tỏ họ nhận thức được sai phạm của họ, ăn năn, hối cải và có ý thức khắc phục để giảm thiểu hậu quả, giảm trách nhiệm hình sự mà họ phải đối mặt. Sự hợp tác này là kết quả của việc định hướng đấu tranh tội phạm đúng đắn mà các cơ quan tố tụng đã vạch ra. Khởi tố đúng hành vi, truy tố đúng tội danh, điều hành phiên tòa dân chủ, công tâm sẽ dẫn tới việc chuyển hóa trong nhận thức của các bị cáo, giúp họ nhận ra và thực sự có ý thức sửa chữa lỗi lầm - điều này có giá trị hơn bất cứ bản án trừng phạt nào đối với họ.
Trong lịch sử tố tụng hình sự, nhiều trường hợp bị can, bị cáo tự giác khai nhận hành vi để mong được hưởng lượng khoan hồng. Có trường hợp bị can khai nhận ngay từ giai đoạn điều tra, thậm chí ngay cả khi chưa bị khởi tố về hành vi đó, họ đã nhận tội. Có trường hợp bị kết án tử hình, tới khi bị đưa ra thi hành án tử hình mới khai thêm về hành vi của đồng phạm (vụ án Vũ Xuân Trường - Xiêng Phênh mua bán trái phép chất ma túy)… Tất cả những trường hợp này đều mong muốn hướng tới việc được giảm nhẹ hình phạt, cho họ có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Trong vụ án Tổng Công ty Viễn thông MobiFone (MobiFone) mua 95% cổ phần của Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn Cầu (AVG), quá trình điều tra các bị cáo về hành vi “Vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng", bị can Lê Nam Trà (nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên MobiFone) đã tự giác đầu thú, tự khai ra việc nhận hối lộ 2,5 triệu USD từ Phạm Nhật Vũ (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị AVG) và tự nguyện nộp lại đầy đủ số tiền này.
Sau động thái đó của Lê Nam Trà, lần lượt các bị can khác cũng tự giác khai nhận và tự nguyện khắc phục hậu quả. Việc hợp tác này là rất đặc biệt, nhất là đối với hành vi đưa và nhận hối lộ. Hợp tác đến mức chưa bị khởi tố về hành vi đó, họ đã nhận tội và khắc phục hậu quả. Điều này chứng tỏ các bị cáo đều đã nhận thức được sai phạm của mình và có ý thức khắc phục để giảm thiểu hậu quả, giảm trách nhiệm hình sự mà mình phải đối mặt.
Có thể nói, trong số các hành vi phạm tội, hành vi đưa và nhận hối lộ là hành vi khó bị phát giác nhất, bởi chỉ có người đưa và người nhận tiền biết, rất khó để có bằng chứng hoặc nhân chứng chứng minh điều này. Trong nhiều vụ án kinh tế trọng điểm, các sai phạm của bị cáo là rất rõ ràng, song các cơ quan tố tụng không thể làm rõ được nguyên nhân, động cơ nào dẫn đến việc các bị cáo cố tình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, cố tình cho các đối tượng khác được mua nhà đất, công sản với giá rẻ, được hưởng ưu đãi sai chính sách của Nhà nước… bất chấp hậu quả pháp lý có thể xảy ra.
Trong những vụ án đưa và nhận hối lộ này, việc các bị cáo tự giác đầu thú, khai nhận hành vi và tự nguyện khắc phục, hoàn trả lại số tiền đã nhận là đặc biệt đáng được ghi nhận. Bởi lẽ, nếu họ khai thêm ra, tức là họ sẽ bị khởi tố thêm tội danh, tức là họ sẽ bị tăng hình phạt. Trong khi họ hoàn toàn có thể không khai hoặc thông đồng phản cung, chối tội… nhưng họ đã không làm như vậy.
Để làm được điều này, chắc chắn các bị cáo không chỉ nhận thức được sai phạm của họ mà còn đặt niềm tin rất lớn vào việc nếu khai ra, họ sẽ được hưởng khoan hồng của pháp luật. Việc này đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải nhìn nhận, phải có đánh giá để có một chính sách phù hợp, trả lời cho dư luận và các trường hợp khác. Khi bị can, bị cáo đặt niềm tin vào các cơ quan bảo vệ pháp luật, những cơ quan này phải có trách nhiệm động viên và có cách ứng xử phù hợp với niềm tin đó. Tránh trường hợp động viên xong, bị cáo khai ra, bị cáo hợp tác, mà không có một chính sách pháp luật cho bị cáo. Nếu không đề xuất chính sách pháp luật phù hợp, sẽ không khuyến khích được người phạm tội khai báo.
Vấn đề đặt ra là các cơ quan bảo vệ pháp luật cần vận dụng và xem xét quyết định áp dụng đường lối xử lý như thế nào đối với cá nhân đó? Quyết định áp dụng này không chỉ là quyết định đối với cá nhân đó, mà quan trọng hơn là tạo ra một cơ chế pháp luật để cho người khác, đối tượng khác ý thức được nếu như mình cũng tự giác, thành khẩn như vậy, sẽ được hưởng chính sách tương tự. Quyết định này nhằm cả hai mục tiêu xử phạt và giáo dục, khuyến khích sự chuyển biến nhận thức trong các bị can, bị cáo.
Quay trở lại vụ án MobiFone mua cổ phần của AVG, Hội đồng xét xử đã cân nhắc trường hợp của bị cáo Lê Nam Trà đã đầu thú, thành khẩn nhận tội, chủ động, tích cực tham gia vào việc hủy bỏ Thỏa thuận và Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần AVG; tự thú và tự nguyện nộp lại số tiền nhận hối lộ ngay khi chưa bị phát hiện… Vì vậy, bị cáo Lê Nam Trà được Hội đồng xét xử cho hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với cả hai tội danh “Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” và “Nhận hối lộ”. Trong khi cùng bị truy tố về hai tội danh này, bị cáo Nguyễn Bắc Son (cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông) lại bị tuyên mức án trong khung hình phạt do không có những tình tiết giảm nhẹ như bị cáo Trà.
Tương tự đối với bị cáo Phạm Nhật Vũ, không chỉ có ý thức trách nhiệm trong việc giữ nguyên lời khai từ giai đoạn điều tra đến khi xét xử, tự giác khai nhận hành vi đưa hối lộ, mà bị cáo Vũ còn có ý thức khắc phục hậu quả vụ án. Cụ thể, bị cáo Vũ đã khắc phục toàn bộ thiệt hại của vụ án (hơn 8.445 tỷ đồng); đồng thời còn tự nguyện trả thêm cho MobiFone hơn 329 tỷ đồng (gồm tiền lãi suất, chi phí thuê tư vấn và các chi phí phát sinh khác mà MobiFone đã chi phí cho việc mua bán cổ phần) và chủ động thanh toán 120 tỷ đồng (mua lại thiết bị, vật tư tồn kho mà MobiFone đã đầu tư mua sắm sau khi nhận chuyển nhượng), nâng tổng số tiền bị cáo Vũ tự nguyện thanh toán thêm lên gần 450 tỷ đồng… Với những tình tiết giảm nhẹ này, Hội đồng xét xử đã quyết định cân nhắc giảm đáng kể hình phạt cho bị cáo Vũ, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên thực tế, những trường hợp tự nguyện khai báo, tự giác khắc phục hậu quả như vậy đều được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét khi lượng hình, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt tương xứng với mức độ hành vi. Tuy nhiên, tại mỗi địa phương, mỗi cấp Tòa án có cách áp dụng khác nhau, tùy thuộc vào nhận định của từng Hội đồng xét xử. Điều này đòi hỏi việc xem xét, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho các đối tượng phạm tội có thái độ hợp tác khai báo, tích cực phối hợp điều tra, chủ động khắc phục hậu quả… cần được áp dụng thống nhất, tạo thành những án lệ, làm cơ sở để giải quyết những vụ việc tương tự về sau, tạo niềm tin pháp lý vững chắc cho những người vi phạm khi muốn sửa chữa lỗi lầm. Đó cũng chính là bước tiến quan trọng trong việc cải cách tư pháp ở từng giai đoạn tố tụng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Hoạt động của tòa án phải bảo vệ quyền con người
Tác giả: Kim Anh
Ảnh, đồ họa: TTXVN; Video: Vnews
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Hà Nguyễn
09/01/2021 06:00