Năm 2020, Việt Nam bắt đầu khởi động chuyển đổi số quốc gia với 3 trụ cột chính là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Có thể nói, Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trên thế giới đã xây dựng một chương trình chuyên đề về chuyển đổi số quốc gia, được Chính phủ phê duyệt. Năm 2021 được nhận định là thời điểm "vàng" cho chuyển đổi số. Tất cả các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân cần phải hành động ngay để khát vọng chuyển đổi số của Việt Nam sớm thành hiện thực.
Ngày 3/6/2020, Quyết định số 749/QĐ-TTg về "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" được Thủ tướng phê duyệt đã nêu rõ nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng cho quá trình chuyển đổi số của Việt Nam. Theo đó, chuyển đổi số quốc gia được thực hiện trên thế "kiềng 3 chân" là Chính phủ số - kinh tế số - xã hội số. Việc xây dựng Chính phủ điện tử được nhận định tạo điều kiện kiên quyết để xây dựng thành công Chính phủ số tại Việt Nam.
Thời gian qua, việc xây dựng Chính phủ điện tử được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tập trung chỉ đạo sát sao với 2 mảng chính là cải cách thủ tục hành chính và trục liên thông văn bản quốc gia. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết, theo cách tính của Ngân hàng Thế giới, cải cách thủ tục hành chính và xây dựng Chính phủ điện tử sẽ giúp Việt Nam tiết kiệm khoảng 14.900 tỷ đồng/năm.
Với nỗ lực tổng thể nhằm xây dựng Chính phủ điện tử, năm 2020, Việt Nam được Liên hợp quốc xếp hạng 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 2 bậc so với năm 2018. Việt Nam đã duy trì việc tăng hạng liên tục trong giai đoạn 2014-2020, từ vị trí 99 lên vị trí 86; được xếp vào nhóm các nước phát triển Chính phủ điện tử ở mức cao, thậm chí cao hơn chỉ số trung bình thế giới.
Thời gian qua, kinh tế số của Việt Nam có bước phát triển ấn tượng. Theo Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019”, nền kinh tế số Việt Nam năm 2019 trị giá 12 tỷ USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025. Kinh tế số, thương mại điện tử tại Việt Nam đang có sự tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ trung bình những năm qua từ 25 - 30%/năm.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020, GDP Việt Nam tăng 2,91%. Tuy đây là mức tăng thấp nhất trong thập kỷ gần đây nhưng trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp thì đây lại là thành công lớn của Việt Nam trong việc hoàn thành mục tiêu kép, vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế. Năm 2020, Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới với sự thay đổi đột biến khi chuyển đổi số trở thành điều kiện sống còn của các doanh nghiệp.
Để đẩy nhanh quá trình xây dựng Chính phủ số thì phát triển kinh tế số là một trong những yếu tố then chốt. Trong kinh tế số, toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp hướng tới môi trường số, đặc biệt hướng đến các doanh nghiệp số phát triển đóng góp cho kinh tế số và ứng dụng các công nghệ số vào hoạt động của các doanh nghiệp truyền thống. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019, của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ lệ 20% GDP và khoảng 30% GDP vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này cần sự nỗ lực đồng bộ từ Chính phủ đến người dân, doanh nghiệp.
Trên cơ sở định hướng phát triển Chính phủ số, nền tảng của kinh tế số, xã hội số trở thành yếu tố tất yếu đối với mọi người dân, hoạt động xã hội. Ở phạm vi rộng, xã hội số bao trùm lên mọi hoạt động của con người. Động lực chính của xã hội số là công nghệ số, dựa trên sự tăng trưởng thông tin, dữ liệu một cách nhanh chóng, làm thay đổi mọi khía cạnh của tổ chức xã hội. Ở phạm vi hẹp hơn, xã hội số gồm công dân số và văn hóa số. Xã hội số để cải thiện chất lượng sống của người dân một cách cơ bản, hướng đến chuyển đổi số quốc gia.
Chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển cũng đang bắt đầu quá trình chuyển đổi số. Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/1/2020 về thúc đẩy phát triển công nghệ số Việt Nam đã đưa ra nhận định: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, học máy sâu, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian mới để phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, chuyển đổi số cần sự đóng góp rất lớn của cộng đồng làm công nghệ thông tin tại Việt Nam - đội ngũ "cần tiên phong, giữ đội hình, nắm tay nhau bước thật đều, thật nhanh để đưa Việt Nam phát triển vượt bậc”, Phó Thủ tướng đề nghị.
Nhận sứ mệnh quan trọng trong công cuộc chuyển đổi số, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ: Ngành thông tin và truyền thông sẽ phải nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt quá trình chuyển đổi số quốc gia, ở mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, trên cơ sở tập hợp, phát huy sức mạnh của toàn xã hội.
Để tiến hành chuyển đổi số ở quy mô quốc gia, trước tiên mỗi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần nhanh chóng hoạch định chiến lược và kế hoạch hành động thực hiện chuyển đổi số tại đơn vị. Các doanh nghiệp công nghệ lớn cần tập trung phát triển hạ tầng, nền tảng, tạo không gian để các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động, kết nối kinh doanh, đổi mới sáng tạo. Đây là cách để tạo ra hệ sinh thái ứng dụng và dịch vụ đa dạng, bền vững với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Để đánh giá các bước đi của quá trình chuyển đổi số, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số của các cơ quan, tổ chức nhà nước. Các bộ, ngành, địa phương sử dụng bộ chỉ số này để tự đánh giá các bước đi trên tiến trình chuyển đổi số. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, chuyển đổi số chỉ thành công nếu có sự tham gia của toàn dân. Muốn hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước, Việt Nam phải nắm bắt thời cơ của cách mạng công nghiệp 4.0, thực hiện công cuộc chuyển đổi số nhanh, mạnh và rộng hơn nữa.
Khát vọng chuyển đổi số tại Việt Nam đặt nhiệm vụ cho ngành công nghệ thông tin và truyền thông phải làm chủ hạ tầng, không gian mạng và bảo vệ chủ quyền số quốc gia trên chính không gian số. Vì hạ tầng số là yếu tố nền tảng then chốt trong xây dựng Chính phủ số, phát triển kinh tế số, xã hội số, nên hạ tầng viễn thông phải chuyển dịch thành hạ tầng số (bao gồm hạ tầng viễn thông internet và điện toán đám mây). Mục tiêu quan trọng trước mắt của Việt Nam là phát triển mạng và thiết bị 5G, làm chủ hạ tầng điện toán đám mây bằng công nghệ, nền tảng “Make in Viet Nam” để quá trình chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng, toàn diện và đảm bảo an toàn an ninh mạng.
Trong quá trình chuyển đổi số, hạ tầng số quốc gia phải đi trước một bước để đáp ứng các yêu cầu mới về bùng nổ thiết bị thông minh kết nối internvet vạn vật (IoT) và giao tiếp giữa máy móc với máy móc. Bản chất của internet là mở, dựa trên công nghệ mở, giao thức mở. Do đó, để phát triển an toàn, Việt Nam phải làm chủ hạ tầng internet và không gian mạng.
Giữa tháng 1/2021, Việt Nam đã chuyển đổi hoàn toàn địa chỉ internet từ giao thức internet thế hệ 4 (IPv4) sang thế hệ 6 (IPv6). Ông Nguyễn Hồng Thắng, Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam cho biết, với ưu thế vượt trội về công nghệ và an toàn bảo mật, IPv6 là giao thức mặc định trong mạng 5G và internet kết nối vạn vật (IoT); là tài nguyên số giúp phát triển mạng internet, hạ tầng, dịch vụ số.
Hiện Việt Nam có 34 triệu người sử dụng IPv6, đạt 46%; đứng thứ 2 khu vực ASEAN, thứ 4 ở châu Á và thứ 10 thế giới về chuyển đổi IPv6. Cùng với đó, Việt Nam là một trong những nước tiên phong trên thế giới thử nghiệm thành công 5G - công nghệ có khả năng truyền tải dữ liệu mạnh, nhanh hơn nhiều lần so với 3G-4G. Trước đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp phép cho 3 nhà mạng (Viettel, MobiFone, Vinaphone) thử nghiệm thương mại hóa 5G. Bộ đặc biệt khuyến khích, hỗ trợ và đồng hành cùng các doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất được nhiều thiết bị viễn thông 5G.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phan Tâm khẳng định, các sản phẩm thiết kế, chế tạo 5G "Make in Viet Nam" là minh chứng cho sự chủ động, khẳng định năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong sản xuất, thiết kế các sản phẩm công nghệ cao 5G.
Theo dự báo của Hãng Cisco, việc triển khai sớm dịch vụ 5G có thể giúp Việt Nam đạt khoảng 6,3 triệu thuê bao 5G vào năm 2025, các nhà mạng tăng doanh thu thêm khoảng 300 triệu USD mỗi năm. Dự báo này một lần nữa khẳng định, đầu tư phát triển hạ tầng viễn thông không chỉ giúp tăng trưởng kinh tế mà còn là yếu tố quan trọng để Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số.
Ông Trần Tuấn Anh, Trưởng phòng Thanh tra Pháp chế, Cục Viễn thông, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết: Chương trình chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam có 2 nội dung chính là phát triển hạ tầng số và phát triển nền tảng số. Đối với hạ tầng số, cần xây dựng hạ tầng băng rộng, bao gồm cả mạng cáp quang quốc tế, cáp quang biển, phát triển hạ tầng mạng truy nhập 4G, 5G. Đối với việc phát triển nền tảng số, các tập đoàn công nghệ thông tin mở kết nối internet (platform IoT) để cộng đồng doanh nghiệp phát triển ứng dụng vào các lĩnh vực khác như: giao thông, điện lực hoặc là năng lượng, nước, đô thị thông minh…
Cơ sở viễn thông internet là hạ tầng phục vụ cho quá trình chuyển đổi số của từng cá nhân, doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực. Hiện nay, 3 nhà mạng lớn nhất Việt Nam là Viettel, Vinaphone và MobiFone đã dốc sức thử nghiệm và thương mại hóa 5G. Dự kiến, đến năm 2025, số lượng kết nối 5G tại khu vực châu Á sẽ đứng đầu thế giới, chiếm hơn 50% kết nối 5G toàn cầu. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chia sẻ: 2G chúng ta đi nhanh so với thế giới, 3G đi vào top trung bình, 4G đi chậm, 5G vươn lên đi nhanh. Nếu đi nhanh được 5G thì "đây là thời cơ chúng ta bứt phá, mơ ước về phát triển một nền công nghiệp thông tin được khẳng định”, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam kỳ vọng.
Năm 2020, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát động chiến dịch thúc đẩy chuyển đổi số bằng nền tảng điện toán đám mây và khẳng định đây là công nghệ trụ cột của quá trình chuyển đổi số. Tháng 12/2020, Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã công bố và trao chứng nhận cho 5 doanh nghiệp Việt làm chủ các nền tảng điện toán đám mây. Đó là Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông quân đội (Viettel), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Công nghệ CMC, Công ty Cổ phần VNG và Công ty Cổ phần VCCorp. Đây là các nền tảng đáp ứng được Bộ tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá và lựa chọn giải pháp nền tảng điện toán đám mây phục vụ Chính phủ điện tử/chính quyền điện tử (trong đó có 69/153 chỉ tiêu về an toàn, an ninh thông tin).
Ông Vũ Minh Trí, Tổng giám đốc VNG Cloud chia sẻ: Khi các doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi số, phần lớn sẽ gặp vấn đề trong việc lựa chọn các dịch vụ đám mây đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về công nghệ hiện đại và tuân thủ an toàn thông tin, Luật An ninh mạng của Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông lựa chọn và trao chứng nhận cho doanh nghiệp Việt Nam chứng tỏ năng lực của các nhà cung cấp đã sẵn sàng phục vụ doanh nghiệp. Mặt khác, đây là lời khẳng định việc 5 doanh nghiệp này sẽ là những đơn vị có thể giúp các doanh nghiệp trong nước nhanh chóng chuyển lên môi trường điện toán đám mây trong quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Việt Nam có khát vọng vươn lên thông qua chuyển đổi số, biểu hiện là sự ra đời của rất nhiều nền tảng học từ xa, khám chữa bệnh từ xa, làm việc từ xa, hội nghị truyền hình, dịch vụ kế toán từ xa, nền tảng làm báo điện tử, an toàn an ninh mạng, hạ tầng về điện toán đám mây… Do đó, mọi dữ liệu cần phải được đưa lên đám mây để lưu trữ và đảm bảo kết nối. Tiện ích của đám mây giúp người dùng cá nhân, doanh nghiệp có thể giảm chi phí sử dụng, dễ dàng lấy dữ liệu. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là không thể để dữ liệu của Việt Nam cho các công ty nước ngoài lưu trữ; mặt khác để đảm bảo an toàn thì Việt Nam phải làm chủ điện toán đám mây Việt.
Hiện nay, Viettel có hơn 2.200 máy chủ, đang cung cấp cho hơn 14.500 khách hàng và có khả năng lưu trữ 30.000 T-byte dữ liệu, giúp cho các đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức cá nhân có thể tiết kiệm chi phí khi hoạt động trên môi trường đám mây. Với hơn 1.000 hệ thống điều hành (server) lưu trữ dữ liệu cho khoảng 800 khách hàng, tổ chức, doanh nghiệp của hệ thống đám mây mà VNPT đang cung cấp, cũng có thể giúp các đơn vị chuyển đổi số nhanh, hiệu quả hơn.
Đến thời điểm này, thị trường điện toán đám mây (cloud) của Việt Nam đạt khoảng 3.200 tỷ đồng (tương đương 133 triệu USD). Việt Nam có khoảng 27 trung tâm dữ liệu điện toán đám mây do 11 doanh nghiệp trong nước đầu tư với trên 270.000 máy chủ được kết nối trong cả nước. Tuy vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới chiếm khoảng 20% thị phần các sản phẩm, dịch vụ điện toán đám mây trong nước. 80% thị phần còn lại do các công ty nước ngoài cung cấp.
Theo dự báo, đến năm 2025 thị trường điện toán đám mây tại Việt Nam sẽ đạt 500 triệu USD và tốc độ tăng trưởng khoảng 30 - 40%. Đặc biệt, năm 2020 đã thúc đẩy phát triển thị trường điện toán đám mây, nhờ đó tốc độ tăng trưởng của thị trường này đã đạt tới 40% và triển vọng phát triển vô cùng rộng lớn.
Điện toán đám mây được coi như là "móng nhà" trong quá trình chuyển đổi số. Cùng với công nghệ 5G, các dịch vụ cung cấp trên nền này sẽ ngày càng hữu ích hơn với người dùng. Hơn lúc nào hết, Việt Nam cần phát triển nhanh 5G và nỗ lực làm chủ công nghệ này để đảm bảo hạ tầng thiết yếu cho chuyển đổi số của Việt Nam diễn ra nhanh chóng và an toàn.
5G mở ra nhiều cơ hội chuyển đổi số cho Việt Nam:
Năm 2020 đánh dấu mốc quan trọng khi Việt Nam bắt đầu khởi động chuyển đổi số quốc gia. Chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong mọi ngành nghề, lĩnh vực mà các doanh nghiệp công nghệ số đóng vai trò quan trọng khi tạo ra những sản phẩm do người Việt Nam làm chủ. Mỗi sản phẩm "Make in Viet Nam" thành công đều gắn với những câu chuyện đầy tự hào, truyền cảm hứng của các đơn vị, doanh nghiệp công nghệ thông tin nước nhà.
Cuối tháng 12/2020, tại Diễn đàn quốc gia Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, khi nói về chuyển đổi số, doanh nghiệp công nghệ và sản phẩm công nghệ "Make in Viet Nam", Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ: Từ trước đến nay, chúng ta đã nghe, nói nhiều về các câu chuyện của nước ngoài. Đã đến lúc chúng ta phải kể câu chuyện của Việt Nam. Nói về sản phẩm "Make in Viet Nam" chính là kể câu chuyện Việt Nam để gây cảm hứng, khích lệ người Việt làm được những công việc khó. “Mỗi người dân, doanh nghiệp Việt Nam hãy "Make in Viet Nam" và kể câu chuyện của chính mình. Chúng ta có rất nhiều câu chuyện, hãy kể nó để có nhiều hơn nữa các câu chuyện Việt”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng mong muốn.
Sau 30 năm hình thành và phát triển, từ một công ty xây lắp nhỏ (thành lập năm 1989), đến nay, Viettel đã trở thành một tập đoàn công nghiệp viễn thông hàng đầu Việt Nam. Thành quả của Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel có sự đóng góp rất lớn của công nghệ thông tin, đặc biệt là chuyển đổi số trong giai đoạn vừa qua. Viettel đã vươn mình lớn mạnh, khẳng định vị thế không chỉ tại Việt Nam, khu vực và còn vươn ra quốc tế.
Ông Nguyễn Thanh Nam, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp, Viễn thông Quân đội (Viettel) chia sẻ, Viettel có doanh thu hàng năm đạt 20 tỷ USD, lợi nhuận 40.000 tỷ đồng. Viettel luôn có mặt trong nhóm 500 thương hiệu lớn nhất thế giới. Trong lĩnh vực viễn thông, thương hiệu Viettel chiếm vị trí số 1 Đông Nam Á và đứng thứ 28 trên thế giới.
Chia sẻ về bí quyết chuyển mình nhanh chóng của Viettel, ông Nguyễn Thanh Nam đề cập đến 2 yếu tố cơ bản là “đổi mới tổ chức văn hóa” và “xây dựng nhân tài”. Cụm từ “văn hóa Viettel” được nhiều người biết đến, tạo nên sự khác biệt của Viettel trong cộng đồng công nghệ thông tin Việt Nam. Ở khía cạnh trọng dụng nhân tài, Viettel chú trọng thu hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin, công nghệ cao bằng chế độ đãi ngộ xứng đáng. “Hiện trong lĩnh vực an ninh mạng, trong nhóm 100 cao thủ thế giới, có 4 người làm tại Viettel”...
Không chỉ xây dựng nội bộ vững mạnh, mỗi “chân rết” Viettel vươn đến, cuộc sống của người dân đều có thay đổi tích cực. Đến thời điểm hiện tại, Viettel đã phủ sóng tới 100% các xã và 95% dân số cả nước. Trên cơ sở mạng lưới viễn thông mạnh, Viettel tập trung xây dựng hệ sinh thái nền tảng công nghệ Việt đa dạng, phục vụ nhiều lĩnh vực như tài chính, y tế, giáo dục, xây dựng đô thị thông minh… Năm 2020, khi dịch COVID-19 bùng phát, Viettel là một trong những đơn vị công nghệ thông tin đầu tiên triển khai ứng dụng, phần mềm hỗ trợ người dân trong dịch vụ khám chữa bệnh từ xa (Telehealth). Trong 2 tháng, ứng dụng này đã triển khai với quy mô hơn 1.000 điểm, tiến tới sẽ mở rộng tới 4.000 cơ sở y tế cấp xã, phường.
Sau khi thử nghiệm thành công mạng 5G, năm 2021, Viettel nỗ lực xây dựng và phát sóng mạng và thương mại hóa 5G. Nhiều sản phẩm công nghệ 5G đang được Viettel nghiên cứu, đầu tư sản xuất để đảm bảo công nghệ Việt đáp ứng được nhu cầu của người Việt. Và ở tầm cao hơn, sử dụng công nghệ Việt là cách duy nhất để đảm bảo an toàn an ninh quốc gia trên không gian mạng.
Trong giai đoạn 2018-2020, nhiều doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam tìm hướng đi bứt phá trong cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Đầu năm 2020, dịch COVID-19 xuất hiện mang đến "cú sốc" cho toàn cầu. Ngay lập tức, nhận định chuyển đổi số trở thành yếu tố sống còn tại Việt Nam, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty cổ phần FPT đã kêu gọi các doanh nghiệp nhanh chóng chuyển đổi số để bắt kịp thời đại.
Nhìn lại chặng đường phát triển 20 năm của thương hiệu FPT, ông Trương Gia Bình không thể quên những khó khăn khi bước chân vào làng công nghệ phần mềm. FPT đã nỗ lực tìm hướng đi gia công phần mềm, đưa kỹ sư Việt đi làm thuê cho những nước phát triển để đổi lại tri thức, mối quan hệ và vươn lên làm chủ những công nghệ mới. Đến nay, FPT tự hào là một thương hiệu công nghệ thông tin Việt, tin cậy của khách hàng, trong đó nhiều doanh nghiệp hàng đầu thế giới, ở những thị trường công nghệ lớn như Nhật Bản, Mỹ.
Ông Trương Gia Bình chia sẻ: Lực lượng làm công nghệ thông tin của Việt Nam lúc này đang ở mức tương đương nhiều quốc gia phát triển. Với đội ngũ này, các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt nam có thể giải quyết các bài toán về nhu cầu chuyển đổi số trong nước và cho các nước khác trên thế giới. Khi làm được điều này, Việt Nam sẽ ghi tên mình trên bản đồ công nghệ mới trên phạm vi toàn cầu. Đây là khát vọng của cộng đồng làm công nghệ thông tin của Việt Nam, trong đó, FPT luôn sẵn sàng đi đầu, tiên phong, cùng các tập đoàn công nghệ mạnh khác, dẫn dắt xu hướng công nghệ nước nhà.
Là một doanh nghiệp Việt, khai khác mảng ứng dụng gọi xe thông minh, Tổng giám đốc Be Group Nguyễn Hoàng Phương đã chia sẻ trên nhiều diễn đàn câu chuyện khởi nghiệp của Be. Theo bà Nguyễn Hoàng Phương, công nghệ số góp phần xoá đi khoảng cách giữa các lĩnh vực, quốc gia, doanh nghiệp; tạo ra kinh tế số với một tiềm năng rất lớn. Trong những lĩnh vực mới, các doanh nghiệp công nghệ nước ngoài nhanh chóng tạo ra trị trước mắt như các ứng dụng Grab, Uber... trong lĩnh vực gọi xe thông minh. Tuy nhiên, mỗi thị trường đều có những đặc tính riêng, Uber không tồn tại lâu được ở Việt Nam, đây là bài học và là cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt. “Nếu doanh nghiệp trong nước không đứng lên, làm chủ những mảng kinh doanh cốt lõi thì sẽ thua ngay trên sân nhà. Người Việt Nam cần làm chủ công nghệ, hệ sinh thái số thuần Việt để cạnh tranh và vươn ra thế giới”. Đó là lý do mà bà quyết tâm xây dựng thương Be.
Hiện nay, ứng dụng gọi xe Be của Be Group đã sở hữu khoảng 30% thị phần tại Việt Nam. Đây là nỗ lực lớn để "giành" sân nhà của một doanh nghiệp Việt trước các “đối thủ ngoại quốc to lớn”. Trong tương lai, bà Nguyễn Hoàng Phương mong muốn xây dựng Be Group thành một mạng lưới với vận chuyển, tiếp vận (logistics), giao thông, tài chính thanh toán, du lịch tiện dụng nhất để người dân tối đa hóa được nhu cầu mà chỉ cần dùng thống nhất một ứng dụng duy nhất...
Bà Đinh Thị Thúy, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần MISA chia sẻ, tổng kết năm 2020, MISA tăng trưởng 25% so với năm 2019 dù phải đối đầu với nhiều khó khăn do ảnh hưởng COVID-19. Để lội ngược dòng ngoạn mục trong giai đoạn đầu của chuyển đổi số kèm với vượt qua tác động kép của dịch COVID-19, bà Thúy nhấn mạnh: Cần tư duy theo hướng biến thách thức thành cơ hội và hành động nhanh chóng.
Công ty Cổ phần MISA đã đón làn sóng công nghệ mới, nỗ lực đưa ra nhiều sản phẩm hiện đại, trong đó có hóa đơn điện tử - một sản phẩm phù hợp với việc bán hàng từ xa. Năm 2020, dù ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng sản phẩm này đã vươn đến khách hàng trong nhiều lĩnh vực mới. Bởi đây là sản phẩm giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong thời gian giãn cách xã hội do COVID-19; phù hợp với xu thế phát triển thương mại điện tử.
Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra kỷ nguyên công nghệ mới, dịch COVID-19 đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi số để tồn tại và phát triển. Họ không chỉ nỗ lực tìm hướng đi mới, tự chuyển đổi số mà còn cùng liên kết để tạo ra các sản phẩm công nghệ Việt, xây dựng hệ sinh thái "Make in Viet Nam" để hỗ trợ tất cả các địa phương, đơn vị, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số. Sản phẩm công nghệ Việt là nền tảng để nước ta tạo phát triển đột phá về kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số, nâng thu nhập người dân lên mức cao, thay đổi thứ bậc xếp hạng của Việt Nam trên các bảng xếp hạng toàn cầu.
Động lực chuyển đổi số:
Bài: Ngọc Bích
Ảnh, đồ họa: TTXVN, TTXVN phát; Video: Vnews
Biên tập: Kỳ Thư
Trình bày: Hà Nguyễn
18/02/2021 06:05