Hội nghị do Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Na Uy và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đồng tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, có sự tham gia của các bộ trưởng hoặc đặc phái viên cấp cao thuộc các ngành Ngoại giao, Môi trường, Tài nguyên thiên nhiên, Biến đổi khí hậu, Đại dương và Tài nguyên biển, Nông nghiệp và Thủy sản, Phát triển bền vững, Kế hoạch, Du lịch và các lĩnh vực liên quan từ nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như đại diện các tổ chức quốc tế và thể chế tài chính, các viện nghiên cứu quốc gia và quốc tế, các viện chính sách và trung tâm toàn cầu lớn, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ...
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân cho biết, các báo cáo tham luận và nội dung thảo luận tại các phiên chuyên đề của Hội nghị đã góp phần tăng cường nhận thức về tầm quan trọng trong việc phát triển kinh tế biển xanh bền vững có khả năng chống chịu trước các thách thức và rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu. Hội nghị cũng đã giúp tăng cường sự hiểu biết, chia sẻ các nỗ lực chung và thúc đẩy các cơ hội hợp tác vì sức khỏe của đại dương, phúc lợi cho người dân thế hệ hôm nay và mai sau.
Thứ trưởng Lê Minh Ngân khẳng định, là một quốc gia biển, Việt Nam cam kết sẽ nỗ lực hợp tác cùng các nước trong việc giải quyết và ứng phó với các thách thức toàn cầu vì một biển xanh, trong lành và kinh tế đại dương bền vững. Việt Nam cam kết sẽ quản lý tốt và loại trừ rác thải nhựa theo lộ trình phù hợp.
Thứ trưởng Lê Minh Ngân tái khẳng định cam kết của các bên tham gia cùng kiến tạo chính sách và môi trường pháp lý quốc tế cho một nền kinh tế biển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt với các nước và các bên liên quan dễ bị tổn thương; thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện do Liên hợp quốc quản lý về tác động đa chiều của biến đổi khí hậu, của nước biển dâng, của rác thải nhựa nhằm hỗ trợ xây dựng chính sách ứng phó toàn cầu. Các bên tham gia cùng giải quyết các thách thức và rủi ro an ninh liên quan đến biến đổi khí hậu thông qua thúc đẩy và xây dựng các cơ chế hợp tác an ninh toàn cầu và khu vực thiết thực, hiệu quả, có tính đến các yếu tố về kinh tế, xã hội, tâm lý, giới và các khía cạnh khác.
Các bên tham gia đồng thuận trong việc tăng cường khả năng phục hồi phát triển kinh tế biển bền vững sau COVID-19 và khả năng thích ứng của các quốc gia, cộng đồng và các bên liên quan dễ bị tổn thương, bao gồm các hộ nông dân sản xuất nhỏ và ngư dân, để xây dựng và phát triển các ngành kinh tế biển quan trọng như giao thông vận tải biển, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, du lịch biển/ven biển, và các nguồn năng lượng tái tạo.
Các bên tham gia cũng thống nhất khuyến khích đầu tư, nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ biển, chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo biển xanh mới và giám sát quản lý sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, nâng cao nhận thức về kinh tế biển bền vững, sự tham gia rộng rãi của các bên trong xây dựng quyết định và chính sách về kinh tế biển bền vững.
Trong các ngày làm việc, các đại biểu đã tập trung thảo luận 5 chủ đề chính gồm: Phục hồi kinh tế biển xanh hậu COVID-19, hướng tới nền kinh tế đại dương xanh và bền vững; quy hoạch không gian biển, xây dựng các thành phố ven biển và hạ tầng có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu; chống ô nhiễm biển và rác thải nhựa đại dương: thách thức chính của thế kỷ XXI; an ninh khí hậu, giới và khả năng chống chịu của các cộng đồng dễ bị tổn thương; tài chính cho khí hậu và các đại dương. Cũng trong khuôn khổ Hội nghị đã tổ chức phiên toàn thể đặc biệt về các rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu, rác thải nhựa đại dương.
Kết thúc hội nghị, các đồng Chủ tịch đã ra Tuyên bố chung bao gồm 21 điểm. Trong đó, các Bộ trưởng nhấn mạnh mối quan tâm chung trong việc phát triển và bảo tồn các nguồn lực cho kinh tế biển xanh bền vững có khả năng chống chịu, đảm bảo quản trị đại dương dựa trên quy tắc.
Các Bộ trưởng cũng tái khẳng định rằng luật pháp quốc tế được phản ánh trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) và Công ước về Đa dạng sinh học (CBD 1992), cung cấp khung pháp lý cho việc bảo tồn, sử dụng bền vững đại dương và tài nguyên từ đại dương, đồng thời bảo vệ đa dạng sinh học và môi trường biển.
Các Bộ trưởng xác định sự cần thiết đối với việc tất cả các bên liên quan tham gia giải quyết các vấn đề ở cấp địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu, trên cơ sở Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển với các hành động ưu tiên bao gồm: Phục hồi và xây dựng tốt hơn sau đại dịch COVID-19 vì một nền kinh tế biển bền vững và có khả năng chống chịu với khí hậu; giải quyết các rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu; quy hoạch không gian biển, các đô thị và hạ tầng ven biển chống chịu với biến đổi khí hậu; bảo vệ đại dương, chống ô nhiễm biển bao gồm ô nhiễm nhựa; đảm bảo công bằng giới và tăng cường khả năng phục hồi của các cộng đồng dễ bị tổn thương; tiếp cận nguồn tài chính hiệu quả, công bằng, đầy đủ để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm hỗ trợ nền kinh tế xanh bền vững và phục hồi...