Trong vụ án này, có 6 bị cáo bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” gồm: Phạm Minh Tuấn (sinh năm 1974, cựu Tổng Giám đốc SMES), P.H.C (sinh năm 1975, cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc SMES), Nguyễn Huy Sơn (sinh năm 1981, nhân viên SMES), Nguyễn Phương Lan (sinh năm 1980, nhân viên SMES), Nguyễn Thanh Nam (sinh năm 1975, cựu Giám đốc SMES chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh) và Cao Tuấn Nghĩa (sinh năm 1974, cựu Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn Anh).
Bốn bị cáo còn lại bị truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” gồm: Chu Xuân Lai (sinh năm 1967, cựu Tổng Giám đốc PVFI), Lê Xuân Tân (sinh năm 1979, cựu Phó Tổng Giám đốc PVFI), Vũ Xuân Công (sinh năm 1980, cựu Phó Trưởng ban Dịch vụ tài chính PVFI), Vũ Thị Hồng Lan (sinh năm 1978, cựu Trưởng ban Dịch vụ tài chính PVFI).
Vụ án này từng được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra xét xử từ năm 2019 song nhiều lần bị trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tại phiên tòa hồi tháng 5/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng trả hồ sơ yêu cầu làm rõ số cổ phiếu của PVFI đứng tên SMES mà bị cáo P.H.C (cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị của SMES) đang nắm giữ và mục đích mua số cổ phiếu này liên quan thế nào đến số tiền hơn 79 tỷ đồng mà SMES nhận từ Công ty PVFI. Trong đó, Tòa yêu cầu làm rõ 2 nội dung:
Thứ nhất, có hay không biên bản xác nhận công nợ, kế hoạch trả nợ giữa PVI với SMES với hai hợp đồng đầu tư chứng khoán ký ngày 21/4/2010, nếu có thì đã thực hiện thế nào?
Thứ hai, số cổ phiếu PVFI đứng tên SMES mà bị cáo P.H.C đang nắm giữ và mục đích mua số cổ phiếu này liên quan thế nào đến số tiền hơn 79 tỷ đồng mà SMES nhận từ PVFI theo các hợp đồng?
Theo Tòa, điều này được làm rõ sẽ giúp xác định các bị cáo có chiếm đoạt tiền của PVI và PVFI hay không và nếu có là bao nhiêu, thời điểm và hình thức nào? Từ đây, nhà chức trách sẽ xác định trách nhiệm hình sự, dân sự giữa bị cáo và các chủ thể liên quan.
Căn cứ vào kết quả điều tra bổ sung, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao nhận thấy nội dung yêu cầu điều tra bổ sung thứ nhất, tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện ngày 17/4/2011 hết hạn hợp đồng, giữa Hoàng Ngọc Anh, Công ty Tư vấn Anh, Công ty SMES và PVI có văn bản trao đổi về việc gia hạn thời hạn thanh toán cũng như lãi phạt chậm trả, kế hoạch thực hiện hợp đồng. Từ ngày 21/4 - 18/5/2011, SMES đã trả cho PVI tổng số hơn 65,6 tỷ đồng để thanh toán cho Hợp đồng số 15, 16. Đến ngày 18/8/2011, PVI có văn bản số 71 gửi SMES và P.H.C với nội dung yêu cầu phía SMES thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng. Do vậy, nội dung yêu cầu này của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trước đây đã được Cơ quan điều tra tiến hành điều tra làm rõ thể hiện tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Đối với nội dung yêu cầu điều tra bổ sung thứ hai, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho rằng, kết quả điều tra bổ sung đã thể hiện số cổ phần này được SME cầm cố cho PVFI từ thời điểm tháng 8 và tháng 9/2010, không liên quan đến số tiền hơn 79,7 tỷ đồng do PVFI giải ngân theo 4 Hợp đồng từ số 122 - 125.
Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng ban hành ngày 15/8/2019 và chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Theo cáo trạng, Công ty SMES có trụ sở tại Tô Hiến Thành (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), người đại diện pháp luật là bị cáo P.H.C.
Quá trình hoạt động, do cần tiền sử dụng cá nhân và thanh toán các khoản nợ cũ, P.H.C lợi dụng sơ hở của đối tác, dùng thủ đoạn gian dối để tạo dựng khách hàng, đưa các mã chứng khoán khống vào Hợp đồng hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết, Hợp đồng ủy thác cầm cố, xác nhận phong tỏa mã chứng khoán để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của Công ty Cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI) hơn 107 tỷ đồng; chiếm đoạt của Công ty Cổ phần Tài chính Công đoàn Dầu khí (PVFI) hơn 111 tỷ đồng và chiếm đoạt của Ngân hàng HabuBank 80 tỷ đồng. Tổng số tiền các bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt là gần 300 tỷ đồng.
Cụ thể, tại PVI, Phạm Minh Tuấn và P.H.C chọn khách hàng Hoàng Ngọc Anh và Cao Tuấn Nghĩa, Giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn Anh, nhập khống số lượng mã chứng khoán nhằm hoàn thiện hồ sơ để ký 2 hợp đồng hợp tác đầu tư với PVI. SME, PVI ký hai hợp đồng hợp tác với Hoàng Ngọc Anh giá trị hơn 1 tỷ đồng, với Cao Tuấn Nghĩa hơn 198 tỷ đồng... Trong đó, Ngọc Anh và Nghĩa góp bằng số dư các mã cổ phiếu phổ thông, không hạn chế chuyển nhượng. Thực tế hai khách hàng này không sở hữu số chứng khoán trên.
Quá trình điều tra, Hoàng Ngọc Anh thừa nhận số Chứng minh nhân dân ghi trong các hợp đồng là của mình nhưng cho biết bị mất Chứng minh nhân dân và đã làm lại Chứng minh nhân dân khác. Bản thân Ngọc Anh là sinh viên, không có tiền đầu tư chứng khoán, không biết và không có quan hệ với các bên trong hợp đồng. Còn Cao Tuấn Nghĩa thừa nhận sai phạm trong việc ký hợp đồng nhưng cho biết bản thân không được hưởng lợi.
Tương tự, tại PVFI, các bị cáo tạo dựng hồ sơ hợp tác chứng khoán và nhập chứng khoán khống để làm hợp đồng hợp tác đầu tư giữa SME, PVFI với 6 cá nhân mở tài khoản tại SME.
Các bị cáo Nguyễn Huy Sơn, Nguyễn Phương Lan và Cao Tuấn Nghĩa, biết rõ khách hàng không sở hữu số dư chứng khoán nhưng vẫn ký hợp đồng, lập hồ sơ, tạo điều kiện cho các bị cáo P.H.C, Phạm Minh Tuấn và Nguyễn Thanh Nam chiếm đoạt tiền. Do đó, những bị cáo này bị đánh giá là đồng phạm tham gia giúp sức.
Viện Kiểm sát xác định các bị cáo Chu Xuân Lai, Lê Xuân Tân, Vũ Xuân Công và Vũ Thị Hồng Lan là những người có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhưng đã không làm đúng, đầy đủ quy trình hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết của PVFI và quy định tại hợp đồng cung cấp dịch vụ hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết đã được ký kết giữa PVFI với SMES. Ngoài ra, các bị cáo cũng không thực hiện đúng với nội dung hợp đồng nên để cho P.H.C cùng đồng phạm lợi dụng, chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại cho PVFI số tiền hơn 109 tỷ đồng.