Bản Tuyên ngôn độc lập trở thành giá trị tinh thần to lớn, làm nên sức mạnh của lớp lớp thế hệ người Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập cũng thể hiện tài ngoại giao xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam, người được cả thế giới công nhận và kính phục về tài ngoại giao xuất chúng.
Giá trị thời đại
Bàn về thời điểm Bác viết Tuyên ngôn độc lập, Đại sứ, Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Dương Huân, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Ngoại giao cho biết: Ngày 13/8/1945, khi được tin phát xít Nhật sẽ đầu hàng Đồng minh, Đảng ta đã gấp rút thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra Quân lệnh số 1. Ngày 14/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập để quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội quốc dân (ngày 16/8) đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, định Quốc kỳ, Quốc ca. Trong những ngày khẩn trương này, mặc dù đang ốm nặng tại Lán Nà Lừa (Tuyên Quang) nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giành chính quyền mau chóng trên phạm vi cả nước: Bây giờ thời cơ cách mạng đang tới, dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Ngày 19/8/1945, tổng khởi nghĩa nổ ra, giành thắng lợi nhanh chóng tại Hà Nội. Tiếp đó là Huế (23/8/1945) và Sài Gòn (25/8/1945) cùng các địa phương khác giành chính quyền về tay nhân dân.
Tối 25/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh về đến Hà Nội, tạm thời ở tại số nhà 48 phố Hàng Ngang. Người cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định sẽ gấp rút chuẩn bị để tổ chức lễ tuyên bố độc lập vào ngày 2/9/1945. Công việc quan trọng nhất là khởi thảo Tuyên ngôn Độc lập do Người trực tiếp đảm nhiệm. Chỉ trong vòng 4 ngày (ngày 26 - 29/8/1945), cùng với bộn bề công việc sau Tổng khởi nghĩa, Người đã hoàn thành dự thảo Tuyên ngôn Độc lập. Đây là bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba của Việt Nam sau bài thơ: “Nam Quốc Sơn Hà” được Lý Thường Kiệt đọc năm 1077; “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi năm 1428.
“Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 có ý nghĩa vô cùng to lớn với nhân dân và cách mạng Việt Nam; khẳng định nước Việt Nam dân chủ mới đã ra đời thay cho chế độ thuộc địa của thực dân Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan hệ bình đẳng với tất cả các nước trên thế giới và mong rằng các nước trên thế giới công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia mới ra đời. Bản Tuyên ngôn này đã trở thành nền tảng cho nước Việt Nam sau này bởi không có tuyên bố thành lập nước thì Việt Nam không thể thành một chủ thể trên quan hệ quốc tế. Do đó, Bản Tuyên ngôn độc lập có giá trị vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam, có giá trị quốc tế và thời đại”, Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Dương Huân đánh giá.
Vượt qua thế “ngàn cân treo sợi tóc”
Ngày 2/9/1945 đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam non trẻ, đối mặt với muôn vàn thách thức, khó khăn. Về chính trị nội bộ, chính quyền vừa thành lập, lực lượng vũ trang rất nhỏ bé, trang bị vũ khí thô sơ. Về kinh tế, công nghiệp bị đình đốn, đồng ruộng bị bỏ hoang, tài chính bị kiệt quệ, ngân khố trống rỗng, ngân hàng vẫn nằm trong tay người Pháp. Ở miền Bắc, nạn đói giữa năm 1945 làm hai triệu người chết, tiếp đó là đồng bằng Bắc bộ bị trận lụt lớn tàn phá, 95% dân số Việt Nam mù chữ…
Trong bối cảnh đó, Đảng và Bác Hồ xác định đường lối cách mạng nước ta vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, dân tộc trên hết. Về chính sách đối ngoại, Đảng chủ trương ngoại giao với tất cả các nước trên nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”; thuật ngoại giao là: “làm nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”.
Thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại Đảng, với tư cách là Chủ tịch Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Bác Hồ đã triển khai nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng. Người đã gửi công hàm cho những người đứng đấu Chính phủ các nước lớn như Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc và Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định tính hợp pháp của nước ta và tố cáo thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Dương Huân, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giữ quan hệ với các đại diện của Mỹ ở Việt Nam, tiếp xúc với Đại sứ Mỹ tại Pháp khi thăm Pháp… Người còn đề nghị cử một phái đoàn gồm 50 thanh niên Việt Nam thăm Mỹ, thiết lập quan hệ văn hóa, xúc tiến nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp… chủ động thành lập Việt-Mỹ thân hữu Hội.
Trong thế “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước Việt Nam non trẻ lúc bấy giờ, Người thúc đẩy các biện pháp đối nội như tuyên bố độc lập, ra mắt Chính phủ, tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến, soạn thảo Hiến pháp…
Đánh giá về lịch sử đấu tranh ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn cam go này, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm khẳng định: Trong thế “đơn thương độc mã”, cùng một lúc chống lại không chỉ một kẻ thù, đất nước khó khăn, phức tạp, công tác ngoại giao và hoạt động đối ngoại của ta đã triển khai đường lối độc lập, tự chủ nhằm thêm bạn, bớt thù.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Việt Nam kiên trì chủ trương tranh thủ đồng minh, cô lập kẻ thù, góp phần làm thất bại chiến lược của chủ nghĩa đế quốc, tích cực chống lại hoạt động ngoại giao của địch bằng cách phối hợp với đấu tranh quân sự và chính trị để chủ động tấn công địch, giành thắng lợi từng bước.
Những bài học quý giá
Đúc kết từ những nghiên cứu về ngoại giao Hồ Chí Minh từ giai đoạn Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Dương Huân đã đưa ra một số bài học quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngoại giao Việt Nam. Đó là: Đặt lợi ích chính đáng của dân tộc lên trên hết, đồng thời phải tôn trọng lợi ích dân tộc chính đáng của các nước khác, nhất là của các nước láng giềng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ ngoại giao: “Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm”. Lợi ích chính đáng của dân tộc Việt Nam là hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân; lợi ích phát triển và phát huy ảnh hưởng.
Cùng với đó, cần kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; độc lập tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ là “tự điều hành đất nước, không có sự can thiệp của nước ngoài”, tức là dựa vào sức mình là chính. Bác Hồ nhấn mạnh: “Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự cứu lấy mình”. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường nghĩa là nội lực là quyết định, song ngoại lực rất quan trọng, góp phần làm tăng khả năng tự lực tự cường của đất nước.
Mặt khác, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, biệt phái, mà đi liền với đoàn kết, hợp tác và hội nhập quốc tế. Bác Hồ luôn khẳng định: “Thêm bạn bớt thù”, “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “Mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta”. Đó là tiền đề chính sách đối ngoại rộng mở và đa dạng, đa phương hóa sau này của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Dương Huân, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù tình hình quốc tế vô cùng phức tạp, mâu thuẫn Xô-Trung rất sâu sắc, song nhờ có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn cả vật chất và tinh thần của cả Liên Xô và Trung Quốc. Trong thời kỳ đổi mới nhờ có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, chúng ta đã tranh thủ được ngoại lực to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một bài học nữa được Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Dương Huân đưa ra là phải coi trọng, xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn, xây dựng, giữ gìn quan hệ hữu nghị và lâu dài, bền vững với các nước láng giềng. Đặc biệt, bài học “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, lấy cái không đổi để ứng phó với vạn cái thay đổi và lấy vạn điều thay đổi để thực hiện điều không đổi. Đây cũng là mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, giữa nguyên tắc và sách lược. Nếu chỉ biết cái bất biến sẽ trở nên giáo điều, còn chỉ biết cái vạn biến dễ chệch hướng, lạc mục tiêu. Đó chính là triết lý phương Đông rất đặc sắc, là nghệ thuật chỉ đạo chiến lược.
Nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn biến”: Một là, giữ vững mục tiêu các mạng. Hai là, trung thành với lý tưởng đã lựa chọn, có niềm tin vào thắng lợi. Ba là, nắm chắc quy luật tất yếu của của lịch sử. Bốn là, phải biết nhân nhượng, thỏa hiệp, song nhân nhượng thỏa hiệp phải có nguyên tắc. Năm là, xác định đúng giới hạn của nhân nhượng. Sáu là, luôn nhạy bén dự báo, phát hiện thay đổi, nhất là trong các bước ngoặt và kiên quyết, sáng tạo, mưu lược thực hiện điều vạn biến, các vấn đề sách lược.
75 năm đã trôi qua, đất nước ta đã vững vàng trên con đường phát triển và hội nhập quốc tế, khẳng định vai trò của một Việt Nam độc lập, tự chủ, một Việt Nam có vị thế quan trọng trong khu vực cũng như trên trường quốc tế, song ý nghĩa và giá trị lịch sử của Bản Tuyên ngôn độc lập luôn được nhân dân Việt Nam ghi nhớ; Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh cũng luôn được các thế hệ nhà ngoại giao Việt Nam học tập và noi theo.