Trong đó, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và nhiều chương trình, dự án khác triển khai trong vùng dân tộc đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào dân tộc Khmer.
Kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer đã có bước phát triển mạnh, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi thay tích cực. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, nên đời sống đồng bào Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều hạn chế; kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chưa mang tính hàng hóa; đời sống của đồng bào chưa thực sự được đảm bảo và thiếu tính bền vững, chưa có nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội.
Tạo sinh kế bền vững cho đồng bào Khmer là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm phát triển chủ yếu tạo dựng từ nền tảng là việc gìn giữ và phát huy đặc điểm truyền thống văn hóa của dân tộc.
Theo Tiến sĩ Lộc Thị Thủy, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đối với đồng bào dân tộc Khmer, ngôi chùa là công trình kiến trúc nghệ thuật, là nơi để đồng bào thực hiện nghi lễ của Phật giáo, tổ chức dạy chữ Khmer, tổ chức lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản xuất, đồng thời cũng là nơi gìn giữ và phát huy những văn hóa, giáo dục đào tạo con em của đồng bào nhằm bảo tồn giá trị văn hóa như tiếng nói, chữ viết, hoa văn kiến trúc.
Đồng bào dân tộc Khmer và các sư sãi đã giữ gìn, phát huy tốt các lễ hội văn hóa dân tộc, tôn giáo vào đời sống, tinh thần, thể hiện qua lễ cưới, lễ mừng năm mới (Chôl Chnăm Thmây), lễ giỗ ông bà quá cố (Sene Đônta), lễ mừng được mùa (Ooc Om Boc)... Vì vậy, cần phát huy giá trị văn hóa thành giá trị du lịch từ nét đẹp văn hóa phum, sóc, lễ hội, công trình kiến trúc của đồng bào Khmer giúp tạo sinh kế bền vững cho bà con.
Để làm được điều này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tham mưu cho Trung ương Đảng, Chính phủ, Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các sở, ngành, chính quyền địa phương ở các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long về chính sách phát triển kinh tế văn hóa gắn với du lịch bền vững, chính sách đại đoàn kết dân tộc gắn với bảo vệ an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa-xã hội...
Trong khi đó, từ thực tế địa phương, để tạo sinh kế cho các hộ Khmer nghèo, cận nghèo, ông Nguyễn Hữu Phúc, Trưởng ban Dân vận huyện Thới Lai (thành phố Cần Thơ) cho rằng, nên có sự hỗ trợ của doanh nghiệp và Trường dân tộc nội trú trong việc hướng dẫn, đào tạo nghề, kỹ thuật sản xuất cho con em đồng bào dân tộc Khmer; các doanh nghiệp tạo cơ hội việc làm cho người nghèo đồng bào Khmer.
Cùng với đó là chính sách hỗ trợ người nghèo trong tiếp cận nguồn vốn vay để các hộ Khmer nghèo tiếp cận được nguồn vốn vay đầu tư phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho gia đình, giúp hộ nghèo từng bước thoát nghèo và vươn lên khá giả.
Trong thời gian tới, để phát huy những cơ hội, tiềm năng, thế mạnh, hạn chế những thách thức, các cấp chính quyền cần có các chính sách, cơ chế phù hợp với văn hóa người Khmer để giúp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong tư duy, nhận thức về phát triển kinh tế, văn hóa.
Từ đó, tạo cơ sở cho cộng đồng người Khmer tự đứng vững trên đôi chân của chính mình, trên chính mảnh đất quê hương, không phụ thuộc quá nhiều vào sự trợ giúp như trước đây. Đây cũng là cách thức tốt nhất giúp cho đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long phát triển kinh tế-xã hội.
Đồng bằng sông Cửu Long có trên 220 xã thuộc vùng dân tộc thiểu số ở 9/13 tỉnh, thành phố. Đồng bào Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 1,2 triệu người, chiếm 6,7% dân số, cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang...