Việt Nam có một trong những quốc gia nguồn tài nguyên gió tốt nhất trên toàn cầu. Quy hoạch Điện VIII (QHD 8), hiện đang ở dạng dự thảo, có mục tiêu là 7 GW điện gió ngoài khơi và 21 GW điện gió trên bờ vào năm 2030. Ngành điện gió đã sẵn sàng và có thể thực hiện các mục tiêu này và giúp Việt Nam tăng cường an ninh năng lượng, cải thiện cán cân thương mại, tăng tính bền vững của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc tế của đất nước.
Phát biểu tại Hội nghị, Ngài Kees van Baar, Đại sứ Vương quốc Hà Lan khẳng định: “Với cam kết mạnh mẽ tại COP26 đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đã thực sự trở thành một trong những nước đi đầu trong khu vực và hiện đang nỗ lực để biến cam kết đầy tham vọng này thành hiện thực. Để làm được điều này cần có một chương trình chuyển đổi để xanh hóa nền kinh tế Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo và loại bỏ dần sử dụng năng lượng hóa thạch sẽ đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi đó. Quy hoạch điện 8 (PDP-8) với mục tiêu cao hơn về tỷ trọng điện gió trên bờ và ngoài khơi sẽ là một dấu hiệu rõ ràng thu hút các nhà đầu tư và giúp chi phí vốn giảm nhanh mạnh hơn và tạo ra thật nhiều cơ hội việc làm tại Việt Nam”.
Còn Đại sứ Na Uy tại Việt Nam, ông Hilde Solbakken, chia sẻ trong thông điệp chào mừng hội nghị: “Đây là thời điểm tuyệt vời cho sự phát triển của điện gió tại Việt Nam, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Đại sứ quán Na Uy và Cơ quan Thương vụ, Đại sứ quán Na Uy (Innovation Norway) tại Hà Nội tự hào là một trong những nhà đồng tổ chức sự kiện quan trọng này cho ngành điện gió Việt Nam. Na Uy hoan nghênh cam kết về mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Chính phủ Việt Nam được đưa ra tại COP26 ở Glasgow và được xác nhận trong bản kế hoạch “Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC)”, được đệ trình tại COP27 ở Cairo. Điều này thể hiện ý chí chính trị mạnh mẽ và cam kết của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu”.
Theo chia sẻ của Phó Cục trưởng Phạm Nguyên Hùng, Cục điện lực và năng lượng tái tạo, là một trong các nền kinh tế phát triển nhanh hàng đầu khu vực Đông Nam Á, dân số gần 100 triệu người, nhu cầu năng lượng và nhu cầu điện của Việt Nam luôn tăng ở mức cao nhiều năm liên tục. Ngày nay, quy mô hệ thống điện của Việt Nam lớn thứ nhất trong khu vực ASEAN về công suất lắp đặt, đứng thứ 22 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng điện từ năm 2011-2019 là 10.5%, chỉ riêng năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 nên tốc độ tăng trưởng điện giảm xuống. Theo tính toán của Bộ Công Thương, dự báo trong những năm tới, khi nền kinh tế hoàn tào phục hồi, tăng trưởng nhu cầu điện sẽ tiếp tục tăng nhanh ở mức cao.
Thực tiễn phát triển năng lượng, phát triển điện tại Việt Nam thời gian vừa qua đã cho thấy mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia còn nhiều thách thức, các nguồn cung năng lượng sơ cấp trong nước thiếu hụt và bắt đầu phải nhập khẩu năng lượng.
Đứng trước các khó khăn về đảm bảo nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc phòng thì việc chú trọng tới chuyển dịch năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, phát triển năng lượng xanh, sạch và bền vững, đáp ứng các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu được xác định là mục tiêu then chốt và xuyên suốt trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam.
Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã yêu cầu: Xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch. Ưu tiên phát triển điện gió và điện mặt trời phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý. Khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái và trên mặt nước. Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.
Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều giải pháp về chính sách, cơ chế nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Tính đến hết năm 2021, tổng công suất lắp đặt nguồn điện năng lượng tái tạo đã đạt khoảng 20,7 GW, chiếm hơn 27% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện, trong đó điện gió khoảng 4 GW. Việt Nam là quốc gia dẫn đầu khu vực về gia tăng công suất nguồn điện năng lượng tái tạo.
“Là nước nhiệt đới với bờ biển dài hơn 3.200 km, tổng diện tích biển khoảng 1 triệu km2, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng điện gió và điện gió ngoài khơi rất lớn. Trên thế giới, công nghệ năng lượng tái tạo đang phát triển vượt bậc, chi phí công nghệ đang giảm nhanh, các giải pháp công nghệ về truyền tải, lưu trữ điện đang có những tiến bộ mới. Đây là cơ hội tốt để Chính phủ Việt Nam tiếp tục xây dựng chính sách, kế hoạch hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh. Dự kiến tới năm 2030, tổng công suất lắp đặt từ nguồn năng lượng tái tạo (chưa bao gồm thuỷ điện) sẽ chiếm tỉ lệ khoảng 27% tổng công suất điện hệ thống, và lên tới khoảng 59% vào năm 2050. Các nguồn điện tái tạo, nhất là điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi sẽ phát triển mạnh mẽ, trở thành nền tảng cho đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong dài hạn. Phát triển điện gió, điện gió ngoài khơi và từng bước hình thành ngành công nghiệp nội địa về lắp đặt thi công, chế tạo thiết bị nhằm tăng tính tự chủ, giảm giá thành là định hướng lớn của Chính phủ Việt Nam trong những năm sắp tới.
Chúng tôi ý thức được rằng, đối với điện gió ngoài khơi, cơ hội rất nhiều nhưng thách thức cũng rất lớn. Nguồn điện gió ngoài khơi trong giai đoạn đến năm 2030 vẫn là nguồn điện có chi phí đầu tư xây dựng cao. Bên cạnh đó, phát triển điện gió ngoài khơi đòi hỏi cao về hạ tầng đồng bộ, tăng cường khả năng vận hành của hệ thống và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Với tính phức hợp của dự án điện gió ngoài khơi (gồm cả công trình trên bờ và trên biển), cần thiết phải hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật, hoàn chỉnh các quy định về khảo sát dự án, giao khu vực biển, đánh giá tác động môi trường…
Bộ Công Thương tin rằng Hội nghị về điện gió ngày hôm nay sẽ là diễn đàn để các chuyên gia, tổ chức trong nước, quốc tế trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm và góp ý cho việc hoàn chỉnh khung chính sách phát triển điện gió tại Việt Nam, nhằm hướng tới mục tiêu chung của quốc gia về an ninh cung cấp năng lượng và chống biến đổi khí hậu”, Phó Cục trưởng Phạm Nguyên Hùng khẳng định.
Theo BTC Hội nghị, sự chuyển đổi triệt để trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế là cần thiết để đối phó với mối đe dọa của biến đổi khí hậu. Chuyển đổi sang năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, bao gồm cả năng lượng gió, là trung tâm của quá trình chuyển đổi này.
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng gió rất lớn, đặc biệt là điện gió ngoài khơi có thể đóng góp đáng kể cho sự phát triển trong tương lai, mang lại khả năng dự đoán về giá cả, tạo ra hàng chục nghìn việc làm trong một ngành công nghiệp mới và cải thiện cán cân thương mại, đồng thời giúp cho đất nước đạt được các cam kết phát thải ròng bằng 0 và thu hút đầu tư quốc tế.
“Nếu ngành điện gió ngoài khơi được cho phép phát triển một cách tự nhiên và thuận lợi từ một số dự án sơ bộ đã được chuẩn bị tốt, thì cách tiếp cận 'theo giai đoạn' của với các biểu giá mua điện tương ứng cho điện gió ngoài khơi, và dần giảm các khoản này trong các cuộc đấu giá theo thời gian có thể cho phép điện gió ngoài khơi trở nên rẻ hơn hầu hết các hình thức sản xuất năng lượng khác – hãy xem xét các ví dụ từ Vương quốc Anh và Đài Loan (Trung Quốc). Để thực hiện được điều này, cần cấp thiết thành lập một ủy ban điều phối liên bộ, có thể do Bộ Công Thương chủ trì. Các chính sách và quy định về gió ngoài khơi ảnh hưởng đến nhiều bộ và cấp chính quyền khác nhau. Ủy ban này sẽ làm việc để đẩy nhanh việc giải quyết các nút thắt cổ chai giữa các bộ khác nhau.
Về điện gió trên bờ, biểu giá mua điện (FiT) đã hết hạn vào năm 2021. Trong khi 4 GW điện gió trên bờ đã hoàn thành trước khi giá FiT hết hạn, có 4 GW khác của các dự án đã ký PPA nhưng không kịp hoàn thành trước thời hạn. Nhiều dự án trong số này đã hoàn thành xây dựng kể từ khi FiT hết hạn. Tính đến thời điểm hiện tại, các dự án này vẫn chưa sản xuất điện, trong khi Việt Nam vẫn tiếp tục nhập khẩu than với giá rất cao.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) mới đây đã công bố biểu giá đề xuất cho các dự án điện gió trễ thời hạn giá FiT. Quy trình thực hiện các mức biểu giá vẫn chưa rõ ràng và để tạo ra một hướng đi cho việc phát triển ngành, chúng tôi khuyến khích chính phủ làm rõ điều này càng sớm càng tốt.
GWEC và ngành điện gió sẵn sàng hợp tác với chính phủ để phát triển các giải pháp để có thể đưa ngành đến gần hơn với việc đạt được các mục tiêu mà chính phủ Việt Nam đặt ra”, đại diện BTC chia sẻ.