Để chống dịch, nhiều tỉnh, thành phố lớn của Việt Nam đã thực hiện giãn cách xã hội theo các Chỉ thị của Chính phủ. Ông có dự đoán gì về xu hướng tiêu dùng thay đổi sau dịch và bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế?
COVID-19 buộc doanh nghiệp cũng phải sáng tạo, phản ứng nhanh để thích ứng với xu hướng và cách thức tiêu dùng mới của người dân. Doanh nghiệp buộc phải thay đổi mô hình kinh doanh, từ sản xuất đến phân phối, vận chuyển, tiêu thụ, để tồn tại và phát triển trong tình hình mới. Các doanh nghiệp chuyển hướng sang mô hình kinh doanh trực tuyến, thực hiện chuyển đổi số để cung cấp sản phẩm dịch vụ tiện lợi hơn cho khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi phí và giảm giá thành sản phẩm, dịch vụ để có thể cạnh tranh thành công trong bối cảnh khắc nghiệt của dịch bệnh.
Không chỉ ảnh hưởng bởi dịch bệnh, số người tiêu dùng trực tuyến ngày càng tăng còn do thế hệ Z – thế hệ được sinh ra sau khi Internet trở nên phổ biến rộng rãi, được tiếp xúc và sử dụng công nghệ từ nhỏ - đang dần trở thành lực lượng dân số chính hiện nay. Vì vậy, ứng dụng công nghệ số trong chi tiêu, mua sắm là xu hướng tất yếu của những người tiêu dùng trẻ hiện đại. Trong giai đoạn 5 -10 năm tới, thế hệ Z sẽ thay thế toàn bộ lực lượng lao động toàn cầu. Theo đó, kinh tế số, kinh doanh trực tuyến không chỉ đáp ứng thay đổi nhu cầu hiện tại mà còn đón đầu xu thế tiêu dùng tương lai.
Theo ông, những mô hình kinh doanh nào được các ngân hàng hiện áp dụng để thích nghi với môi trường kinh doanh hiện tại?
Có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình kinh doanh truyền thống sang ngân hàng số kiểu mới trong những năm gần đây. Trong khi các ngân hàng truyền thống như Bank of America, Wells Fargo… đưa ra các ứng dụng ngân hàng di động cho phép khách hàng quản lý tài khoản từ điện thoại thông minh thì một số ngân hàng đã thành công trong việc thực hiện 100% các hoạt động kinh doanh trên nền tảng số (digital-only bank) như BankMobile (Mỹ), Monzo (Anh), K-Bank (Hàn Quốc)…
Trước làn sóng số hoá mạnh mẽ đó, ngành tài chính ngân hàng Việt Nam không đứng ngoài cuộc, đa phần các ngân hàng tại Việt Nam đã áp dụng công nghệ để cải thiện hiệu quả các dịch vụ tài chính và đưa ra chiến lược Ngân hàng số thông qua cung ứng các sản phẩm - dịch vụ tài chính có tính cá nhân hoá cao qua kênh số như thanh toán di động (mobile payment), e-KYC, QR code… nâng cao trải nghiệm của khách hàng khi tiếp cận dịch vụ ngân hàng.
Một vấn đề quan trọng đó là những chiến lược của ngân hàng trong thời gian qua sắp tới khó có thể thành công nếu thiếu công nghệ tài chính. Thị phần của các ngân hàng có xu hướng suy giảm, nhường lại cho các công ty Fintech. Theo báo cáo phân tích của McKinsey, Fintech có thể ảnh hưởng đến xu hướng giảm từ 10 – 40% lợi nhuận của khu vực ngân hàng từ nay đến năm 2025. Ngân hàng cần hợp tác với Fintech và có chiến lược trở thành một công ty công nghệ.
Trong báo cáo “Định hình tương lai: Cách thức các định chế tài chính đang áp dụng Fintech để tiến hóa và phát triển” của KPMG, khảo sát 160 tổ chức tài chính trên 36 quốc gia, các ngân hàng trả lời phỏng vấn đã thực hiện các chiến lược với Fintech: mua lại, thuê, tự xây dựng và hợp tác. Trong đó, 81% trong tổng số ngân hàng được khảo sát thiên về mô hình hợp tác trong hiện tại và tương lai, tăng 20% so với trong quá khứ (61%).
Có thể nhắc đến MBBank như một trong những ngân hàng điển hình, đang đầu tư mạnh cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số, năng lực hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin nhằm thực hiện chiến lược mới theo hướng hoàn chỉnh mô hình tập đoàn tài chính trên nền tảng số hóa để củng cố kết nối hệ sinh thái khách hàng, dịch vụ, sản phẩm giữa ngân hàng với các công ty thành viên. Hơn nữa, Ngân hàng này còn hướng đến xây dựng một mô hình ngân hàng số tự phục vụ (self-serving), mang tính cá nhân hóa cao dành cho khách hàng như mô hình MB Smartbank 24/7 cũng như APP MBBank ngày càng được đầu tư bài bản, linh hoạt theo nhu cầu của khách hàng.
Theo ông, cơ hội và thách thức trong chiến lược chuyển đổi số hoặc trong hoạt động kinh doanh nói chung của các ngân hàng trong thời kì hậu COVID-19 là gì?
Nhiều chuyên gia cho rằng một ngân hàng số đích thực là mục tiêu của hành trình chuyển đổi số tại các ngân hàng thương mại. Nghĩa là chuyển đổi số phải là một phần chủ yếu trong chiến lược phát triển của bất cứ ngân hàng thương mại nào. Một cơ hội hay thuận lợi mà các ngân hàng đang có được là nhận thức tầm quan trọng của chuyển đổi số của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính- ngân hàng trong việc phê duyệt "Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030", là động lực để các ngân hàng xây dựng chiến lược riêng cho doanh nghiệp.
Trong bối cảnh COVID-19, các ngân hàng đã đẩy mạnh hoạt động trực tuyến, các ứng dụng số và thanh toán điện tử. Khách hàng đã buộc phải lựa chọn hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và trực tuyến vì hạn chế di chuyển và giãn cách. "Hậu" COVID-19, mặc dù việc di chuyển sẽ có thể dễ dàng hơn nhưng các thói quen đã định hình và sự tiện lợi của các giao dịch trực tuyến sẽ khiến người tiêu dùng lựa chọn những ngân hàng ưu tiên ứng dụng số trong chiến lược phát triển.
Một cơ hội của các ngân hàng là kiểm soát chi phí. Mô hình ngân hàng số cho phép nhanh chóng mở rộng mạng lưới và cơ sở khách hàng, nhất là đối tượng khách hàng trẻ, Gen Z có tiềm năng trở thành khách hàng cao cấp trong tương lai; đồng thời gia tăng năng suất vận hành và kiểm soát chi phí hiệu quả. Uớc tính chi phí giao dịch tại ngân hàng số chỉ bằng 1/50 chi nhánh truyền thống nên dù số lượng khách hàng và giao dịch tăng gấp nhiều lần nhưng nguồn nhân lực chỉ tăng 5 đến 7% nguồn lực nhân sự mỗi năm.
Mặt khác, các khách hàng doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi các đối thủ có tốc độ tiêm vắc-xin vượt trội đang tái khởi động hoạt động sản xuất. Những doanh nghiệp sẽ chọn những ngân hàng hiểu rõ những “nỗi đau” (pain points) của họ bằng cách không chỉ cung cấp dịch vụ tài chính mà còn những dịch vụ phi tài chính như thông tin, đào tạo, tư vấn cho doanh nghiệp. Kinh nghiệm của Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) cho thấy, các ngân hàng thương mại đang bắt đầu phục vụ khách hàng doanh nghiệp không chỉ với các sản phẩm tài chính mà còn cả các công cụ và dịch vụ phi tài chính.
Đa dạng của các sản phẩm ngân hàng trong chuyển đổi số là một cơ hội. Thực tế cho thấy, nhiều ngân hàng mới chỉ triển khai thanh toán trên nền tảng số, trong khi ứng dụng ngân hàng số rất nhiều nghiệp vụ như bảo lãnh, cho vay, quản lý tài sản, công nghệ bảo hiểm (insurtech), công nghệ kiểm soát tài chính (regtech)…. Nên để triển khai đúng nghĩa ‘ngân hàng số’ thì còn nhiều dư địa phát triển cho các ngân hàng bứt phá.