Còn nhiều khó khăn
Theo nhận định chung của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, mặc dù được UNESCO vinh danh đã 8 năm, nhưng hoạt động giao lưu, kết nối của các địa phương sở hữu di sản hầu như không có, việc trình diễn di sản cũng mới thực hiện ở trong thôn nên vẫn chưa có nhiều người biết đến. Chưa kể, ở nhiều nơi, vì chưa có sự quan tâm của chính quyền địa phương nên không gian trình diễn di sản bị xuống cấp, lực lượng tham gia trình diễn thiếu hụt…
Ông Ngô Quang Khải, Trưởng ban Quản lý di tích đền Trấn Vũ (phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội) đề cập một số nguy cơ trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản. Trong đó, một trong những nguy cơ hiện hữu đó là tốc độ của việc đô thị hóa, không gian kiến trúc của làng ngày càng bị thu hẹp do sức ép của việc đô thị hóa, ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội. Sự xáo trộn về dân cư do người các nơi khác về mua đất tại làng làm suy giảm tính đồng nhất trong cộng đồng cư dân. Đất đai ngày càng có giá, làm cho di tích bị xâm lấn hoặc bị tác động, đe dọa đến không gian, cảnh quan kiến trúc của di tích… đồng thời cũng ảnh hưởng đến việc bảo vệ, phát huy di sản.
Theo ông Nguyễn Văn An, Bảo tàng Bắc Ninh, nghi lễ và trò chơi kéo co ở Hữu Chấp (Bắc Ninh) ngày nay mặc dù vẫn được nhân dân duy trì, gìn giữ, phát triển, xong di sản này cũng đang gặp nhiều khó khăn như: Do trong thời gian dài bị ảnh hưởng của chiến tranh, lễ hội không được tổ chức, nghè và những đồ thờ tự phục vụ cho nghi thức rước nước không còn nên đã nhiều năm nay, lễ rước nước không được diễn ra trong lễ hội.
Trong làng, những người còn nhớ về nghi lễ này cũng không nhiều. Bên cạnh đó, việc đi chọn những cây tre đủ tiêu chuẩn dùng làm dây kéo cũng gặp không ít khó khăn. Bởi lẽ ngày nay trong làng không còn tre nên mỗi lần tổ chức phải đi khắp nơi, trong nhiều ngày, sang cả các tỉnh khác mới tìm được những cây tre đủ tiêu chuẩn. Vì thế, một số kiêng kỵ trong chọn tre cũng được giảm bớt cho phù hợp, như: nguồn gốc cây tre không được thẩm định kỹ, tre chỉ cần đảm bảo đủ độ già, không bị sâu, bị kiến đục. Những năm qua, do việc tổ chức tốn kém nên nhân dân chỉ tổ chức trò chơi kéo co hai năm một lần vào những năm chẵn, không gian lễ hội cũng phải chuyển qua vùng đất rộng trước đình chứ không còn tổ chức trong sân đình như trước…
Đồng quan điểm, Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao tỉnh Lào Cai Dương Tuấn Nghĩa cho biết, hiện nay, việc thực hành, trao truyền, bảo vệ di sản nghi lễ và trò chơi kéo co dân tộc Tày, Giáy ở Lào Cai vẫn còn có một số khó khăn. Bên cạnh khó khăn về kinh phí hỗ trợ cho việc tổ chức lễ hội truyền thống, hỗ trợ cho nghệ nhân, học viên tham gia các buổi trao truyền, tập luyện, thực hành nghi lễ và trò chơi kéo co cũng là một trở ngại…, khó khăn, thách thức lớn nhất hiện nay là vai trò chủ thể di sản của đồng bào đang bị xem nhẹ. Do đó, một số yêu cầu mang tính bắt buộc trong truyền thống được đơn giản hóa đi, như: nghi lễ chọn dây mây kéo co.
“Nếu trước đây phải chọn ngày, chọn giờ, chọn loại dây và các nghi lễ khác, hiện nay do việc đi lấy dây xa, khó khăn nên cộng đồng thay bằng loại dây rừng khác, thậm chí là loại dây công nghiệp hiện nay… hay như cách thức kéo cũng đang dần bị ảnh hưởng. Sự tham gia quá đông của khách du lịch cũng ảnh hưởng đến tâm lí của cộng đồng…”, ông Dương Tuấn Nghĩa chia sẻ.
Đồng thuận để gìn giữ, bảo vệ di sản
Bàn giải pháp để gìn giữ, bảo vệ, phát huy giá trị di sản kéo co trong xã hội đương đại, đại diện các địa phương đều đồng thuận ý kiến cho rằng, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục di sản, mở rộng cộng đồng kéo co trong toàn quốc. Đại diện đoàn kéo co (kéo song), thị trấn Hương Canh, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc cho hay, địa phương đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn phục dựng đầy đủ và lập cơ sở dữ liệu, tư liệu nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của di sản, làm cơ sở cho công tác giới thiệu, quảng bá, đưa kéo song vào thành môn học truyền thống tại các nhà trường trên địa bàn thị trấn và trong tương lai mở rộng ra toàn huyện.
Phó Giám đốc Sở Văn hoá và Thể thao tỉnh Lào Cai Dương Tuấn Nghĩa cho biết, nghi lễ và trò chơi kéo co truyền thống của dân tộc Tày, Giáy ở Lào Cai đã và đang được gìn giữ, phát huy giá trị trong cộng đồng. Nghi lễ và trò chơi kéo co gắn kết chặt với lễ hội xuống đồng của người Tày, Giáy. Do đó, kéo co nghi lễ vẫn luôn là một nghi lễ thiêng được cộng đồng trân trọng, gìn giữ. Đây được xem là một nghi lễ nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Với vai trò là một nghi lễ thiêng trong lễ hội xuống đồng, nên cho đến nay kéo co nghi lễ vẫn được đồng bào dân tộc Tày, Giáy bảo lưu và trao truyền cho nhau, cùng phát triển.
Để thực hiện cam kết bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa theo công ước UNESCO, những năm qua, tỉnh Lào Cai đều hết sức quan tâm đến công tác bảo tồn di sản văn hóa nói chung và kéo co nghi lễ nói riêng. Điều đó được cụ thể hóa trong các Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, du lịch tỉnh Lào Cai”. Ngoài ra, Sở Văn hóa và Thể thao cũng thường xuyên tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các kế hoạch, văn bản chỉ đạo các địa phương có di sản tăng cường tuyên truyền, khuyến khích cộng đồng các dân tộc trao truyền di sản văn hóa trong cộng đồng để cùng bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa, gắn bảo tồn với phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương.
Tiến sỹ Dương Tuấn Nghĩa cho rằng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương xây dựng chương trình kế hoạch bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại và đầu tư hỗ trợ nguồn kinh phí cho địa phương để tổ chức phổ biến, thực hành di sản để di sản có sức sống lâu dài, bền vững. Xây dựng kéo co trở thành một hoạt động văn hóa chính trong lễ hội của đồng bào các dân tộc Lào Cai nói riêng, các tỉnh nói chung, góp phần bảo tồn, gìn giữ, phát triển kéo co trở thành di sản văn hóa điển hình của cả nước. Bên cạnh đó, cần ban hành chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân tiêu biểu tham gia vào quá trình bảo vệ, trao truyền di sản; tăng cường hơn nữa các chương trình hỗ trợ bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa nghi lễ và trò chơi kéo co từ nguồn chương trình mục tiêu quốc gia…
Việc nhận diện di sản và ý nghĩa của di sản trong đời sống; vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong bảo vệ, phát huy giá trị di sản cũng được các địa phương quan tâm, chú trọng. Ông Ngô Quang Khải, Trưởng ban quản lý di tích đền Trấn Vũ, cho biết: “Chúng tôi đang thực hiện tốt công tác bảo tồn di sản, đặc biệt là tuyên truyền cho thế hệ trẻ về truyền thống quê hương. Hàng năm, khoảng 12.000 học sinh đến tham quan đền, tìm hiểu về kéo co ngồi. Chính quyền địa phương đã và đang hỗ trợ xây dựng nhà truyền thống để trình chiếu những hình ảnh, phim tài liệu giới thiệu di sản kéo co, không chỉ của địa phương mà của các cộng đồng, dân tộc đang sở hữu di sản”.
Ông Ngô Quang Khải đề xuất, Nhà nước cần đầu tư, tu bổ, tôn tạo tổng thể di tích gắn với việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích; bố trí quỹ đất phục vụ việc xây dựng Bảo tàng Kéo co Việt Nam tại phường Thạch Bàn; kết nối với các tour du lịch phục vụ công tác quảng bá giới thiệu về di sản văn hóa… Đồng thời, đưa chương trình kéo co vào trường học để các học sinh thực hành trong các tiết học thể chất.
Chia sẻ về kinh nghiệm tổ chức hoạt động giáo dục di sản kéo co ở Hàn Quốc, ông Jeong Seok Yong, Thư ký Hội kéo co Gijisi cho biết, khi kéo co được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, trong quá trình phát triển, vận hành chương trình giáo dục di sản văn hóa, Hội kéo co Gijisi đã sáng tạo Hộp giáo dục kéo co. Hộp giáo dục kéo co được phát triển năm 2020 làm nền tảng văn hóa giáo dục cho các thế hệ tương lai. Trong đó, chứa đựng các thông tin, mô hình về di sản văn hóa kéo co, cách thức thực hành phục vụ giáo dục di sản.
Có thể thấy, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Nghi lễ và trò chơi kéo co không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng, cần cả sự chung tay, trách nhiệm của cả chính quyền địa phương, cũng như ngành văn hóa, để di sản có sức sống bền vững trong xã hội đương đại.