Trong đó, nút thắt quan trọng nhất cần được tháo gỡ là quy định, chính sách về tự chủ nhân sự và tài chính để các trường đại học công lập tự chủ có nguồn lực và chủ động phát triển.
Trường Đại học Tôn Đức Thắng-Trường đầu tiên trong cả nước thành công với mô hình tự chủ về tài chính. Ảnh: Phương Vy/TTXVN
|
Đến nay, cả nước có 23 trường đại học công lập triển khai thí điểm tự chủ ở mức độ khác nhau. Đại diện nhiều trường cho biết, các cơ chế, quy định liên quan đến việc tự chủ hiện vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, những hạn chế về quyền tự chủ trong việc tổ chức bộ máy nhân sự và tài chính khiến không ít trường gặp khó khăn trong quá trình hoạch định kế hoạch phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ cũng như chương trình đào tạo.
Để quá trình tự chủ trong các trường đại học thời gian tới thực chất, các đại biểu cho rằng cần có chính sách mở cho các trường chủ động hơn trong việc huy động các nguồn lực xã hội, cũng như đa dạng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ. Cụ thể, các trường có thể tạo nguồn thu thông qua các hoạt động dịch vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học hoặc tận dụng lợi thế sẵn có để thực hiện các hoạt động dịch vụ, liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học nhằm gia tăng nguồn thu và thu hút đầu tư từ xã hội.
Tuy nhiên, cần có chính sách ưu đãi, nhất là về thuế để khuyến khích, thu hút nguồn lực đầu tư từ xã hội. Cùng với đó, các quy định về tự chủ đại học cần có những cơ chế thoáng hơn, nâng cao quyền tự quyết và tự chịu trách nhiệm, để các trường được linh động trong việc tuyển dụng, đánh giá, chi trả lương cho người lao động mới có thể thu hút được nhân tài.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, để các trường đại học thực hiện tự chủ hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải thay đổi tư duy quản lý, trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học cần bỏ cơ chế Bộ chủ quản.
Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung lần này cũng cần quy định ngay cả trường Đại học công lập khi tự chủ nên chia cổ phiếu cho người lao động, Nhà nước cũng chỉ quản lý 50%, để người lao động cảm nhận được mình là chủ mới nỗ lực phấn đấu. Ông Đỗ Văn Dũng cho rằng tự chủ nửa vời, vẫn phải xin - cho sẽ không đạt hiệu quả.
Theo các đại biểu, trong giai đoạn hiện nay, học phí được xem là giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo dục đại học, mức thu học phí cần được tính toán dựa trên chất lượng đào tạo nhưng phải đảm bảo bù đắp đáng kể cho các chi phí hoạt động của trường đại học.
Phân tích cụ thể hơn, Giáo sư Phạm Phụ, Trường Đại học Bách Khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, hiện chi phí đầu tư đào tạo mỗi sinh viên ở nước ta còn thấp, chỉ khoảng 1.000 USD/sinh viên/năm, như vậy sẽ không thể đào tạo được lao động đủ sức cạnh tranh. Để nâng cao chất lượng đào tạo cần từng bước nâng mức chi phí đào tạo mỗi sinh viên lên khoảng 90% GDP/sinh viên/năm, tương đương khoảng 2.100 USD/sinh viên/năm.
Theo xu thế chung, giáo dục đại học phải thực hiện theo nguyên tắc người học chủ yếu phải gánh chịu chi phí đào tạo của mình. Vì vậy, cần từng bước tăng mức học phí sao cho đóng góp của người học chiếm từ 50-55% chi phí đầu tư đào tạo của mỗi sinh viên. Nhằm thực hiện điều này, Nhà nước cần phát triển các quỹ có quy mô đủ lớn để sinh viên vay vốn cũng như thực hiện nhiều chính sách phúc lợi khác nhằm đảm bảo công bằng xã hội, không để sinh viên có đủ trình độ nhưng không theo học được vì lý do tài chính.