Theo đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh, cấu trúc đề thi môn Ngữ văn trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm nay không thay đổi nhiều; tuy nhiên sẽ có “độ mở” cao. Do đó, học sinh cần tập trung rèn luyện kỹ năng và tích luỹ kiến thức để thực hiện tốt nhất các yêu cầu của đề.
Cấu trúc đề thi có 3 phần: Phần đọc hiểu và nghị luận xã hội (mỗi phần 3 điểm), phần nghị luận văn học (4 điểm). Thời gian làm bài 120 phút.
Đối với phần đọc hiểu, các văn bản được chọn có thể là văn bản nghị luận, văn bản thông tin, văn bản văn học, văn bản khoa học... Các câu hỏi được tổ chức theo các mức độ tư duy từ dễ đến khó, từ mức độ nhận biết, thông hiểu đến phân tích, suy luận và đánh giá, vận dụng.
Trong các câu hỏi đọc hiểu, có 1 câu về tiếng Việt. Khi trả lời các câu hỏi đọc hiểu, học sinh cần đọc toàn bộ văn bản để nắm nội dung; trả lời ngắn gọn, rõ ràng theo đúng yêu cầu của đề.
Khi ôn tập, học sinh nên lựa chọn các văn bản từ báo chí, các bài bình luận, các sách khoa học … có nội phù hợp với lứa tuổi, gắn với tình hình thời sự … để luyện tập các kĩ năng đọc hiểu: phát hiện, nhận diện, giải mã từ ngữ, chi tiết, hình ảnh; tìm các vấn đề tiếng Việt có trong văn bản; tập tóm tắt văn bản; nối kết văn bản đang đọc với văn bản khác liên quan, nối kết với thực tế cuộc sống, đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề đặt ra trong văn bản; sáng tạo cách thể hiện khác, đề xuất giải pháp, đặt nhan đề mới …
Đối với phần nghị luận xã hội, bài văn khoảng 500 chữ phải đảm bảo cấu trúc bài nghị luận có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
Thí sinh cần tập phân tích, xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động.
Cần rèn luyện các thao tác lập luận, đặc biệt là thao tác lập luận giải thích, chứng minh, bình luận; đồng thời cần tránh thiếu thao tác lập luận (ví dụ thiếu giải thích về vấn đề bàn luận); vận dụng các thao tác lập luận chưa hiệu quả (dẫn chứng chưa sát với vấn đề, thiếu phân tích dẫn chứng để làm rõ vấn đề, …) hoặc chưa rút ra được bài học cho bản thân thông qua việc bàn luận về vấn đề, các ý bàn luận chưa phong phú, chưa sâu sắc, còn sơ sài.
Đối với nghị luận văn học, học sinh được lựa chọn 1 trong 2 đề để làm bài. Đề bài 1 yêu cầu học sinh tự chọn một tác phẩm thuộc chủ đề mà đề cho, cảm nhận tác phẩm và chỉ ra ảnh hưởng, tác động của tác phẩm đối với bản thân mình hoặc liên hệ đến tác phẩm khác, liên hệ thực tế cuộc sống để rút ra một vấn đề văn học hoặc cuộc sống. Đề bài 2 đề thi đặt ra một tình huống cụ thể và yêu cầu học sinh sử dụng kiến thức, sự trải nghiệm trong quá trình đọc để giải quyết tình huống đó.
Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh hướng dẫn, ở phần này các em cần rèn luyện kĩ năng phân tích, cảm nhận tác phẩm văn học theo thể loại thơ, truyện; nắm vững kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học; đọc thêm các tác phẩm ngoài sách giáo khoa có cùng chủ đề; dùng kiến thức và trải nghiệm đọc tác phẩm để giải quyết một tình huống cụ thể.
Theo đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh, hạn chế của học sinh khi làm bài thi là diễn xuôi lại tác phẩm; bài làm thiếu cảm xúc do ít đọc, ít suy tư, cũng có thể do học vẹt. Không hiểu rõ yêu cầu của đề, viết lại các nội dung đã học một cách máy móc.
Ngoài ra, theo ông Trần Tiến Thành, chuyên viên Ngữ văn, Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh, một số nguyên nhân làm ảnh hưởng đến bài thi môn ngữ văn của học sinh còn do các em phân bố thời gian không hợp lí cho các phần, các câu; đọc đề không kĩ dẫn đến trả lời không đúng trọng tâm, hoặc trả lời dài dòng, thừa ý; trình bày, viết chữ cẩu thả, khó đọc; bài làm không hoàn chỉnh do quá say sưa viết về 1 ý dẫn đến quên kết bài hoặc kết bài quá sơ sài. Mặt khác, cũng có em bị ám ảnh bởi suy nghĩ đề thi tuyển sinh là phải khó, “phải có nhiều bẫy” dẫn đến tâm trạng lo lắng, căng thẳng, áp lực, ảnh hưởng đến bài làm.