Các nghiên cứu chỉ ra rằng, việc giảm giờ làm không hẳn sẽ khiến năng suất lao động giảm sút, ngược lại sẽ giúp giảm áp lực quá tải trong công việc, tăng khả năng tái tạo sức lao động, người lao động hứng khởi hơn, năng suất lao động tăng cao hơn. Xét một cách lâu dài, giảm giờ làm còn có ý nghĩa trong việc tạo thêm việc làm cho người lao động, kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp, tác động tích cực đến đời sống xã hội…
Nhưng nếu đứng ở góc độ doanh nghiệp, việc giảm giờ làm, trước mắt có thể tạo ra những khó khăn nhất định cho doanh nghiệp cũng như đối với nền sản xuất do tăng chi phí tạm thời và hiệu suất lao động giảm… Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế đang còn nhiều khó khăn như hiện nay, việc áp dụng quy định giảm giờ làm có thể sẽ tạo ra những khó khăn nhất định đối với nền kinh tế cả nước.
Thậm chí, một số chuyên gia còn đang để xuất Nhà nước cần nới rộng khung giờ làm thêm, như một cách đồng cam cộng khổ với doanh nghiệp, vượt qua khó khăn, trong bối cảnh sản xuất trong nước đang chịu những tác động mang tính bất lợi của nền kinh tế thế giới.
Xét về mặt nguyên tắc, việc xây dựng một hành lang pháp lý, đảm bảo quyền lợi cho người lao động làm việc theo đúng số giờ quy định là rất cần thiết và là việc phải làm. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế tình trạng lao động trong nước, thì ngoài việc xây dựng lộ trình giảm giờ làm, các ngành chức năng còn phải xây dựng những quy định, giải pháp mang tính cụ thể, thiết thực hơn để bảo vệ quyền lợi cũng như đời sống cho người lao động.
Mặc dù báo cáo của các ngành chức năng cho rằng, mức lương tối thiểu hiện nay có thể đảm bảo 95% mức sống tối thiểu của người lao động, nhưng thực tế cho thấy trong khoảng hơn 16 triệu lao động ở các loại hình doanh nghiệp trong cả nước, chỉ có khoảng hơn 50% lao động có thu nhập tạm đủ để trang trải cuộc sống, hơn 20% trong số đó phải chi tiêu tằn tiện, số còn lại không đủ sống. Ở nhiều khu công nghiệp, có cả những trường hợp nữ công nhân phải chấp nhận “bán mình” hoặc sinh con thuê để nhận về những khoản tiền nhằm trang trải cuộc sống do nguồn thu nhập quá thấp.
Công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở gia công hàng may mặc, giày da… phải tăng ca liên tục để có thêm thu nhập, nhằm đảm bảo cuộc sống với những nhu cầu tối thiểu hàng ngày. Điều này cho thấy, tăng hoặc giảm vài giờ làm việc chưa phải là vấn đề bức thiết của người lao động. Vấn đề chính vẫn là việc đảm bảo thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Việc xây dựng quy định giảm thời gian làm việc, thời gian làm thêm giờ đối với công nhân, người lao động nói chung, nếu được áp dụng một cách cứng nhắc, có thể sẽ tạo ra những khó khăn không chỉ cho doanh nghiệp mà khó khăn cho cả với người lao động. Nhất là trong điều kiện người lao động phổ thông, chân tay vẫn đang chiếm số lượng lớn, lao động kỹ thuật cao vẫn chiếm tỷ lệ khá nhỏ.
Điều này đòi hỏi bên cạnh những “quy định cứng” về thơi gian làm việc và thời gian làm thêm giờ, các ngành chức năng cần có những quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cơ sở xem xét tính đặc thù của từng ngành nghề lao động cụ thể cũng như chấp nhận thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, trong trường hợp hai bên đạt được thỏa thuận về quyền lợi và đảm bảo yếu tố sức khỏe.
Cùng với việc đề xuất sửa đổi Luật Lao động theo hướng giảm giờ làm từ 48 giờ làm/ tuần xuống còn 44 giờ/tuần, khảo sát mới đây của Tổng Liên Đoàn Lao động cho thấy khoảng 80% người tham gia khảo sát đồng ý với quan điểm giảm giờ làm. Trong điều kiện lý tưởng, việc giảm giờ làm không kéo theo giảm thu nhập của người lao động và không tạo gánh nặng lên đơn vị sử dụng lao động thì đây rõ ràng là việc làm được sự đồng thuận cao của người lao động và là việc nên làm.
Nhưng với tinh thần “liệu cơm gắp mắm” của người Việt, để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp sử dụng lao động cũng đời sống của người lao động, việc giảm giờ làm nhất thiết phải được tiến hành song song với những tính toán cụ thể nhằm đảm bảo thu nhập của người lao động cũng như giữ vững sự phát triển sự ổn định của doanh nghiệp và nền kinh tế cả nước.