Khi số phiếu đại cử tri trong cuộc bầu cử năm 1800 – cuộc bầu cử tổng thống lần thứ tư trong lịch sử nước Mỹ non trẻ - được chia đều cho hai ứng cử viên, thì rắc rối đã xảy ra. Hai ứng viên cùng nhận được chính xác 73 phiếu đại cử tri - lần đầu tiên và duy nhất cho đến nay xảy ra kết quả như vậy trong lịch sử bầu cử Mỹ.
Rất may là Hiến pháp Mỹ đã quy định một kế hoạch riêng cho tình huống hai ứng cử viên ngang sức như vậy: “Nếu có hơn một người nắm được đa số như vậy, và có kết quả số phiếu ngang bằng, khi đó Hạ viện sẽ ngay lập tức bỏ phiếu chọn một trong số họ làm tổng thống”.
Nhưng giá như mà thủ tục đó dễ dàng như vậy. Hạ viện Mỹ đã chia rẽ sâu sắc đến mức bế tắc trong 36 lần bỏ phiếu trước khi chọn được Thomas Jefferson là người chiến thắng. Và quá trình này đã để lại một loạt vấn đề với hệ thống đại cử tri đoàn mà chỉ có thể được khắc phục bằng một sửa đổi hiến pháp.
Các nhà lập pháp Mỹ vốn hy vọng rằng các đảng chính trị không cần thiết được trao quyền lực, nhưng trên thực tế các ứng cử viên tổng thống đã bắt đầu liên kết với các phe phái chính trị ngay từ cuộc bầu cử năm 1796 – sự kiện bầu cử đầu tiên sau kỷ nguyên George Washington. Gần như ngay lập tức, sự tồn tại của các đảng chính trị xung đột lẫn nhau đã gây ra những cơn đau đầu cho hệ thống đại cử tri đoàn của Mỹ.
Trong 4 cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đầu tiên, mỗi đại cử tri được quyền bỏ hai lá phiếu bầu tổng thống. Ứng cử viên giành được đa số phiếu đại cử tri sẽ là tổng thống, và người giành số phiếu cao thứ hai làm phó tổng thống. Trong cuộc bầu cử năm 1796, John Adams giành ghế tổng thống, nhưng người về thứ hai lại là Thomas Jeffferson – một đối thủ chính trị chính của Adams, nay lại là phó tổng thống của ông.
“Đó là một trong những manh mối đầu tiên cho thấy đại cử tri đoàn được tạo ra bởi các nhà lập quốc đang không hoạt động như dự kiến”, ông Robert Alexander, Giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Ohio Northern, tác giả cuốn “Đại diện và Đại cử tri đoàn” cho biết.
Thế hòa giữa hai ứng viên cùng một đảng
Cuộc bầu cử với kết quả hòa vào năm 1800 đã tạo ra một tiền lệ mạnh mẽ để thay đổi hệ thống đại cử tri đoàn. Cho tới năm 1800, hai đảng chính trị ở Mỹ, đảng Liên bang và đảng Dân chủ - Cộng hòa, có sự tranh chấp hoàn toàn tới các đại cử tri, những người cam kết bỏ lá phiếu của họ cho nhóm ứng cử viên đã được mỗi đảng lựa chọn kỹ lưỡng.
Giáo sư Alexander cho biết: “Rắc rối xảy ra khi các đại cử tri cam kết với đảng Dân chủ - Cộng hoà bỏ một phiếu cho mỗi người trong số 2 người trên phiếu. Kết quả là tỉ số hoà 73-73 giữa Thomas Jefferson và người liên danh của ông, Aaron Burr, cả hai đều là thành viên đảng Dân chủ - Cộng hoà”.
Trong khi đó, ứng viên đảng Liên bang, Tổng thống đương nhiệm John Adams chỉ nhận được 65 phiếu và bị loại khỏi cuộc đua. Theo Hiến pháp, kết quả hoà giữa hai người đứng đầu sẽ phải được Hạ viện quyết định. Tại Hạ viện, mỗi bang được bỏ một phiếu để chọn người chiến thắng trong số 2 người đang hoà. Điều oái oăm là cuộc bỏ phiếu này lại nhằm chọn ra người chiến thắng giữa hai ứng viên cùng một đảng, Thomas Jefferson và Burr.
Đảng Liên bang, vốn chiếm đa số tại quốc hội khi đó có ít thành viên, lúc này rơi vào tình thế khó xử là phải chọn ra tổng thống từ hai ứng cử viên của đảng đối thủ. Các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa liên bang như Alexander Hamilton ghét kiểu chính trị của Jefferson, nhưng họ lại càng không tin tưởng một Burr theo chủ nghĩa lạc quan. Hai bang Pennsylvania và Virginia thậm chí bắt đầu huy động dân quân, vì lo sợ một sự bế tắc có thể dẫn đến nội chiến. Hạ viện đã phải trải qua 36 lần bỏ phiếu hoà liên tiếp trước khi Jefferson được chọn làm tổng thống và thảm hoạ được ngăn chặn trong gang tấc.
Tu chính án thứ 12 ra đời
Trục trặc trong cuộc bầu cử năm 1800 đã chứng minh rằng hệ thống đại cử tri đoàn lúc đó không được thiết kế đầy đủ cho việc bỏ phiếu theo đảng phái. Ngay trong thời gian diễn ra cuộc bầu cử tổng thống 1804, Quốc hội Mỹ đã thông qua Tu chính án thứ 12, hướng dẫn các đại cử tri bỏ một lá phiếu cho tổng thống và lá thứ hai cho phó tổng thống.
“Mặc dù đại cử tri đoàn là một trong những thể chế gây tranh cãi nhất do các nhà lập quốc tạo ra – đã có trên 700 nỗ lực sửa đổi hoặc bãi bỏ nó – và chỉ một vài nỗ lực trong số đó cho kết quả, Tu chính án thứ 12 là lần đầu tiên như vậy”, ông Alexander nói. “Điều đó thực sự thay đổi đáng kể hoạt động của đại cử tri đoàn”.
Bên cạnh việc tạo ra cách bỏ phiếu riêng rẽ cho tổng thống và phó tổng thống, Tu chính án thứ 12 cũng giới hạn lĩnh vực mà các ứng cử viên tổng thống có thể được bỏ phiếu trong một cuộc bỏ phiếu ngẫu nhiên tại Hạ viện. Tu chính án này quy định, nếu không có ứng cử viên nào giành đa số tại cuộc bỏ phiếu của cử tri đoàn, cuộc bầu cử sẽ được quyết định ở Hạ viện, nhưng chỉ 3 người có số phiếu đại cử tri cao nhất mới được xem xét.
Thất bại của Andrew Jackson và sự kiện 'Mặc cả Tham nhũng'
Điều khoản dường như vô hại đó của Tu chính án thứ 12 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc bầu cử tổng thống năm 1824, trong đó 4 ứng cử viên nhận được số phiếu đại cử tri đáng kể, khiến người đứng đầu là Andrew Jackson mất quyền đa số để thắng cử lập tức.
Do chỉ có 3 người có phiếu Đại cử tri cao nhất được đưa lên cuộc bỏ phiếu tại Hạ viện, người về thứ tư là Henry Clay không tham gia cuộc đua này. Nhưng ông Clay, khi đó đang là Chủ tịch Hạ viện, được cho là đã sử dụng ảnh hưởng của mình để khiến John Quincy Adams được bầu, thay vì Jackson.
Khi Jackson, người cũng giành được đa số phiếu phổ thông, biết rằng Adams chỉ định Clay làm Ngoại trưởng của nội các mới, ông đã điên tiết cáo buộc đây là “một cuộc mặc cả tham nhũng” trắng trợn để cướp Nhà Trắng từ tay ông.
“Andrew Jackson là ứng cử viên tổng thống duy nhất nhận được đa số phiếu của đại cử tri đoàn và đa số phiếu phổ thông mà vẫn thất cử” – Giáo sư Alexander cho biết.