PGS.TS Nguyễn Châu Lân, Trường Đại học Giao thông vận tải đưa ra kết quả khảo sát và nhận định ban đầu về nguyên nhân thảm họa Làng Nủ và một số khu vực trọng điểm tỉnh Lào Cai.
Cụ thể, lượng mưa giờ và lượng mưa tích lũy trong 3 ngày bão Yagi quá lớn gây trượt lở khối lớn, tích tụ vật liệu vào đoạn co hẹp tạo đập tạm thời và vỡ, thời điểm khoảng 6 giờ sáng ngày 10/9; Đá phiến phong hóa mạnh, cường độ không cao và tầng phong hóa dày gây trượt lở khối lớn; Thời gian dòng lũ bùn đá tràn và mở rộng xuống vùng quạt bên dưới (phạm vi ảnh hưởng lớn nhất) nhanh; Vận tốc dòng chảy quá lớn, kèm bùn đá, đất gây phá hủy nhà cửa.
Các chuyên gia đến từ Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học tự nhiên đã chỉ ra các dạng thiên tai từ đất dốc, tai biến dọc các dòng chảy trên đất dốc.
GS.TS Đỗ Minh Đức và nhóm nghiên cứu bộ môn Địa kỹ thuật và Phát triển hạ tầng, Khoa Địa chất Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết: "Khu vực có điều kiện địa hình, địa chất và đặc điểm phân bố dân cư tương tự như làng Nủ không phải là cá biệt mà ngược lại khá phổ biến ở khu vực miền núi Việt Nam".
GS.TS Đỗ Minh Đức cũng lưu ý, một số khe nứt sẽ không dẫn ngay đến trượt lở. Các hoạt động trên đất dốc có thể xóa nhòa dấu vết của khe nứt, nhưng một khi đã xuất hiện khe nứt, mái dốc sẽ không thể tự “liền lại” được nữa và nguy cơ trượt lở luôn tiềm ẩn. Bên cạnh taluy đường giao thông, nhà ở, các mái dốc rừng sản xuất đã qua một vài lần khai thác và trồng lại hoặc có hoạt động trên mái dốc như xây dựng công trình, tháp viễn thông, đường dây tải điện… đều cần được lưu ý.
Mưa là yếu tố chủ yếu kích hoạt trượt lở, do vậy, dự báo cần được làm như sau: Các hệ thống quan trắc mưa hiện tại cần có mật độ cao hơn, phát hiện sớm mưa lớn cực đoan; Các hệ thống quan trắc chuyên sâu về ổn định mái dốc; nâng cao độ chính xác công tác dự báo qua ứng dụng phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo; Tăng cường truyền thông thông tin cảnh báo sớm, đảm bảo chính quyền các cấp, đặc biệt là người dân trong vùng bị tác động của trượt lở nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác và hiểu rõ các hành động cần triển khai khi có yêu cầu.
Theo GS.TS. Đỗ Minh Đức, giải pháp trước mắt: Cảnh báo và hành động sớm: Khi rủi ro trượt lở đạt đến mức rủi ro cấp 1 theo nghị định của Chính phủ, chính quyền địa phương cần hạn chế người và phương tiện lưu thông lân cận các khu vực nguy cơ cao, tới rủi ro cấp 2 và cao hơn, cần cấm các phương tiện lưu thông qua các khu vực nguy cơ cao; di chuyển dân trong khu vực nguy cơ cao đến nơi an toàn và chỉ quay lại khi không còn cảnh báo nguy cơ trượt lở.
Phát huy hiệu quả vai trò của các cán bộ cơ sở xã, thôn, các tổ đội xung kích phòng tránh thiên tai, như phát hiện sớm các dấu hiệu trượt lở, lũ quét. Chính quyền và người dân cần chú ý đến tính bất thường và cực đoan của thời tiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuẩn bị kịch bản ứng phó với những tình huống khó khăn nhất.
Các giải pháp trung hạn: Ưu tiên đảm bảo an toàn các khu vực tập trung dân cư. Kiểm soát được tác động tiêu cực của nước mưa và nước mặt: thu thoát nước mưa, nước mặt để giảm tải tác động nhân sinh lên đất dốc, trong một số trường hợp cần có cả thoát nước ngầm. Bảo vệ, phát triển rừng đầu nguồn Xây dựng quy trình, hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng các công trình dân dụng, giao thông, thủy lợi, thủy điện,… trong vùng có rủi ro trượt lở.
Các giải pháp dài hạn: Xây dựng quy hoạch chiến lược phát triển tổng thể các vùng đất dốc (Slope Master Plan) Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực các ngành Khoa học Trái đất.