Về việc chậm ban hành các Nghị định quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên nước; Bộ trưởng Trần Hồng Hồng Hà cho biết: Trong Tờ trình số 437/TTr-CP ngày 4/10/2019 của Chính phủ, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là chính sách lần đầu tiên được quy định trong Luật Khoáng sản năm 2010 và Luật Tài nguyên nước năm 2012 của Việt Nam. Bên cạnh thuế tài nguyên đã thu từ nhiều năm trước, đây là một khoản thu thêm, nhằm mục đích yêu cầu tổ chức, cá nhân nâng cao trách nhiệm trong khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí khoáng sản, tài nguyên nước.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, về nguyên nhân dẫn tới việc chậm ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013 quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng: Thời điểm trình dự án Luật Khoáng sản (năm 2010) và Luật Tài nguyên nước (năm 2012), hồ sơ trình thực hiện theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Mặt khác trong bối cảnh thời điểm xây dựng Nghị định cũng là thời điểm thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, tình trạng nợ đọng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật là khá phổ biến với số lượng lớn, Chính phủ phải tập trung xử lý nên chưa quan tâm đúng mức để đôn đốc, chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo đẩy nhanh tiến độ xây dựng văn bản hướng dẫn chi tiết các Luật nêu trên.
Cũng theo người đứng đầu Bộ TN&MT, Luật này không quy định trong hồ sơ trình dự án Luật phải có văn bản quy định chi tiết. Trong quá trình xây dựng các Luật, việc đánh giá tác động của các chính sách nêu trên đã thực hiện nhưng chưa toàn diện, cụ thể (riêng đối với quy định thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản lần đầu được hình thành trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật Khoáng sản).
Ngay sau khi các Luật được ban hành, mặc dù Chính phủ, Bộ TN&MT đã khẩn trương xây dựng các dự thảo Nghị định, nhưng có những nguyên nhân khách quan đã không lường trước được hết về những khó khăn, nhất là các vấn đề liên quan đến kinh tế, các thông số kỹ thuật phức tạp khi xây dựng phương pháp tính và mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Đối với tài nguyên khoáng sản, theo quy định của Luật Khoáng sản, các thông số tính tiền là trữ lượng và chất lượng của từng mỏ, từng loại khoáng sản. Tại thời điểm xây dựng Nghị định có hơn 400 giấy phép khai thác khoáng sản (thuộc thẩm quyền cấp phép của Trung ương) và gần 4.000 Giấy phép (thuộc thẩm quyền cấp phép của địa phương) đã cấp qua nhiều thời kỳ (có mỏ cấp phép trước đó 50 năm) theo nhiều cơ chế, quy định quản lý khác nhau (trước năm 1989 là Pháp lệnh về tài nguyên khoáng sản; từ năm 1996 là Luật Khoáng sản, sau đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản vào năm 2005).
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, để bảo đảm tính khả thi của phương pháp tính sau khi Nghị định ban hành, thông số để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là trữ lượng và chất lượng khoáng sản phải được xác định. Trong khi đó, nội dung của gần 5.000 giấy phép nêu trên phần lớn chỉ ghi công suất khai thác, không có trữ lượng, chất lượng khoáng sản (do nhiều mỏ ở địa phương khi cấp phép chưa thăm dò, chưa đánh giá trữ lượng) và cách ghi cũng không thống nhất, phức tạp. Do đó, khi hoàn thiện phương pháp tính, mức thu gặp khó khăn do phải mất nhiều thời gian, nguồn lực để khảo sát, thăm dò đánh giá lại trữ lượng cho các giấy phép không có trữ lượng (thường từ 2 - 3 năm) nhằm bao quát được tính phức tạp, đa dạng của nhiều loại giấy phép như đã nêu trên.
Đối với tài nguyên nước, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết: Theo quy định của Luật Tài nguyên nước, các thông số tính tiền là chất lượng của nguồn nước, loại nguồn nước, điều kiện khai thác, quy mô, thời gian khai thác, mục đích sử dụng nước của từng công trình khai thác.
Trong khi đó, Luật quy định chỉ tính tiền đối với một số hoạt động khai thác tài nguyên nước có lợi thế như: Thủy điện, khai thác nước để cấp cho một số hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... nhưng không tính tiền đối với nước tưới cho nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt của nhân dân.
Do đó, khi xây dựng phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước mất nhiều thời gian để nghiên cứu kỹ lưỡng, bảo đảm tính khả thi, tránh gây tác động lớn, nhất là tác động đến giá điện, giá nước sạch, trong bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế vĩ mô thiếu ổn định như: Việc xác định lượng nước khai thác phải nộp tiền đối với công trình khai thác nước cấp chung cho nhiều mục đích, gồm cả mục đích phải nộp tiền và không phải nộp tiền (các công trình cấp nước đô thị vừa cấp nước sinh hoạt cho nhân dân (không phải nộp tiền) vừa cấp nước cho kinh doanh, dịch vụ, sản xuất (phải nộp tiền). Về giá để tính tiền (sử dụng giá tính thuế tài nguyên nước hay xây dựng giá mới để tính tiền cấp quyền), mức thu đối với một số mục đích khai thác nước cho sản xuất có tính chất đặc thù (làm mát máy, tạo hơi, tưới cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc...). Xử lý những vấn đề về một công trình khai thác nguồn nước chung của nhiều địa phương... Để hoàn thiện phương pháp tính cần xác định cụ thể nội hàm của từng thông số kỹ thuật tính tiền, gắn với từng đối tượng, từng công trình, mục đích khai thác nước như đã nêu trên.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định: Vì những lý do trên, trong quá trình xây dựng các Nghị định cần phải có nhiều thời gian để hoàn thiện phương pháp tính, mức thu tiền do tính chất phức tạp, đa dạng của các đối tượng thuộc diện tính tiền. Mặt khác, qua nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia, các tổ chức, doanh nghiệp cho các lần dự thảo Nghị định cho thấy cần phải tính toán kỹ lưỡng các phương án để lựa chọn phương án có tính khả thi, nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân liên quan khi lần đầu tiên triển khai chính sách thu thêm một khoản tiền ngoài các khoản thu đã được quy định trước đây để thống nhất, tạo sự đồng thuận cao.
Về trách nhiệm chậm ban hành Nghị định 203, tại Văn bản số 1320/VPCP-V.I ngày 25/2/2015 Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ TN&MT tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của cơ quan tham mưu, trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ và trách nhiệm của tổ chức cá nhân có liên quan.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết: Kết quả đã kiểm điểm cấp Vụ, cấp Tổng cục, Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (giai đoạn 2011 - 2015) đã kiểm điểm và nhận trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu trước Lãnh đạo Bộ. Các Vụ, Cục có liên quan của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã kiểm điểm trách nhiệm và đã có hình thức kỷ luật tương xứng.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng cho rằng, thực tế để ban hành được các Nghị định đã phải qua nhiều lần soạn thảo với ý kiến của hầu hết các thành viên Ban soạn thảo là đại diện của các Bộ, ngành, không phải là ý kiến chủ quan của Bộ TN&MT; có sự tham gia góp ý của tất cả UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; góp ý của đại diện các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên nước thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối tượng điều chỉnh của các Nghị định này là hàng ngàn doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Riêng đối với tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được hạch toán vào giá thành sản xuất, chủ yếu được tính vào giá điện, giá nước. Thực chất các nhà máy điện, nhà máy nước chỉ là người thu hộ từ người dùng điện, dùng nước để nộp cho nhà nước.
“Do đó, nếu Quốc hội đồng ý cho lùi thời hạn thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước về mặt bản chất thì người dùng điện, dùng nước sẽ không phải nộp thêm khoản tiền nêu trên chứ không phải các nhà máy điện, nhà máy nước được miễn. Vì vậy không có vấn đề về lợi ích nhóm”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định.