Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, làn sóng COVID-19 bùng phát lần thứ 4 đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành tài chính - ngân hàng nói riêng. Song, đây lại là tác nhân tích cực thúc đẩy tiến trình số hóa nhanh hơn bởi sự cấp thiết của việc duy trì hoạt động lưu thông tiền tệ thường xuyên, liên tục. Các hoạt động ngân hàng không tiếp xúc đã trở nên phổ biến hơn và việc sử dụng dịch vụ online của khách hàng cũng dần trở thành thói quen.
Cùng quan điểm này, IDG Việt Nam đánh giá, ngành ngân hàng đã đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng song cũng đang còn 5 điểm nghẽn đáng lưu ý. Đó là hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin mới ở mức đang dần hoàn thiện. Bên cạnh đó, cơ chế hợp tác, chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia chưa rõ ràng. Ngoài ra, tỉ lệ giao dịch tiền mặt còn cao; một số hệ sinh thái fintech (công nghệ tài chính) chưa thực sự liên thông với các tổ chức tín dụng khác để tạo thuận tiện nhất cho người dùng. Việc hợp tác giữa các ngân hàng và các đơn vị fintech chưa sâu như mong đợi.
Theo chuyên gia tài chính - ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu, chuyển đổi số trong ngành ngân hàng gắn với sự phát triển của thiết bị di động, mang internet và mạng xã hội. Sự phát triển của các yếu tố này đã thúc đẩy chuyển đổi số ngày càng phát triển. Theo đó, những sản phẩm mới trong hệ thông tài chính - ngân hàng bao gồm ví điện tử, tiền di động đang được sử dụng.
Đặc biệt, với nền tảng di dộng, tiền di động nếu được đưa vào sử dụng sẽ giải quyết được việc thanh toán ở vùng sâu vùng xa, nơi 40% người dân chưa được tiếp cận với tài khoản ngân hàng thì từ nay được thực hiện thanh toán điện tử qua di động. Tuy nhiên, cần phải cân nhắc trong việc trao phép tạo tiền cho nhà mạng chức năng như của ngân hàng trong việc đưa tiền di động vào lưu thông.
Ông Phạm Quang Minh, Tổng giám đốc Mambu Việt Nam cho biết, việc ứng dụng công nghệ số giúp thay đổi diện mạo của ngân hàng, tạo ra nhiều giá trị mới như trải nghiệm khách hàng tốt hơn; chất lượng vận hành, dịch vụ tốt hơn, hiệu quả hơn; giảm chi phí vận hành; nhiều dịch vụ sáng tạo và an toàn bảo mật hơn. Nhưng, việc thực thi chuyển đổi số tại các ngân hàng đang ở nhiều mức khác nhau, đòi hỏi quy trình, kiến trúc và cách vận hành linh hoạt của các doanh nghiệp, bởi một số doanh nghiệp coi đây là dự án về công nghệ nhiều hơn kinh doanh.
Trong khi đó, chuyển đổi số gắn liền với chiến lược kinh doanh; trong đó, chuyển đổi số để thu hút, tạo ra sân chơi mới cho khách hàng. Về phía các ngân hàng, thông qua chuyển đổi số mà môi trường và hành vi tiêu dùng thay đổi thì phải không ngừng tạo ra hệ sinh thái mới phù hợp hoặc hợp tác với các fintech tạo ra sân chơi mới cho khách hàng.
Ông Bùi Đình Giáp, Nhà sáng lập kiêm Giám đốc Điều hành Công ty akaBot - FPT Software thông tin: “Dưới áp lực vận hành liên tục và duy trì tăng trưởng hậu COVID, ngân hàng có thể ứng dụng nguồn lực số để nhanh chóng tối ưu hoá vận hành; đồng thời, giúp nhân viên tăng năng suất, giảm áp lực và tập trung vào những công việc có giá trị hơn. Dự kiến đến 2024, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia nằm trong top đầu của Đông Nam Á về tỷ lệ ứng dụng ‘nhân lực số’ trong ngành ngân hàng”.
Thực tế, theo nghiên cứu của Mastercard Việt Nam, Campuchia và Lào, đại dịch là chất xúc tác giúp phát triển tư duy “kỹ thuật số là mặc định”. Theo đó, thói quen thanh toán của người tiêu dùng đã thay đổi.
Cụ thể, từ 60-70% người dân Đông Nam Á đã giảm mức sử dụng tiền mặt; 75% người dân châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục sử dụng thanh toán không tiếp xúc sau đại dịch; 91% người dân khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã sử dụng hình thức thanh toán không tiếp xúc vì lý do an toàn và vệ sinh.
Bà Winnie Wong, Giám đốc Quốc gia Mastercard Việt Nam, Campuchia và Lào chia sẻ: “Tương lai của tiền tệ chính là kỹ thuật số. Đại dịch đã đẩy nhanh bước tiến vào thế giới số, với lối sống và tư duy “ưu tiên kỹ thuật số” của người tiêu dùng. Tuy vậy, sẽ vẫn cần thêm thời gian để nắm bắt những cơ hội nhằm chiếm trọn được cảm tình của người tiêu dùng với thanh toán không dung tiền mặt”.
Ngoài ngành ngân hàng, trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ tài chính, ngành kinh doanh chứng khoán năm qua có ghi nhận nhiều nỗ lực chuyển đổi số, cho ra đời hoặc nâng cấp, cải tiến nhiều sản phẩm, dịch vụ giúp gia tăng hiệu quả quản trị, trải nghiệm cho doanh nghiệp và cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, so với sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của thị trường thì lĩnh vực chứng khoán nên đẩy mạnh việc chuyển đổi số nhằm đưa ra những sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh hơn.
Đối với lĩnh vực bảo hiểm, trong 5 năm qua, riêng thị trường bảo hiểm nhân thọ đã đạt tốc độ tăng trưởng cao, từ 25-30%. Cụ thể năm 2019, tổng doanh thu của thị trường bảo hiểm nhân thọ ước đạt 129.120 tỷ đồng; trong đó, doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 107.793 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2018.
Cùng với đó, các sản phẩm bảo hiểm được đa dạng hóa với hơn 450 sản phẩm thuộc tất cả các nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của hơn 9,8 triệu người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ cho lĩnh vực bảo hiểm vẫn có phần chưa tương xứng, các ứng dụng di động vẫn chỉ dừng ở mức đơn giản, chưa giải quyết yêu cầu về dữ liệu lớn của ngành bảo hiểm hiện nay như việc từ khối dữ liệu khổng lồ dự đoán được nhu cầu mỗi nhóm khách hàng để xây dựng gói sản phẩm thích hợp.
Tại hội thảo cũng đã giới thiệu mô hình và kinh nghiệm phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm kiểu mới, những sản phẩm, dịch vụ dự kiến sẽ trở nên phổ biến trên thị trường dịch vụ tài chính quốc tế và ở Việt Nam trong những năm tới.