So với các năm gần đây, tổng lượng xả thấp hơn 0,84 tỷ so với năm 2023, thấp hơn 1,46 tỷ m3 so với năm 2022, thấp hơn 0,36 tỷ m3 so với năm 2021, cao hơn 0,1 tỷ m3 so với năm 2020 (năm có mưa lớn vào Tết Nguyên Đán), thấp hơn 1,64 tỷ m3 so với năm 2019.
Do tiến độ lấy nước đợt 1 nhanh hơn dự kiến, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo rút ngắn 2 ngày, kết thúc lúc 24 giờ ngày 28/1. Đợt 2 thực hiện linh hoạt trong ngày cuối cùng, mực nước thấp hơn so với kế hoạch để tiết kiệm lượng nước xả nhưng vẫn bảo đảm nguồn nước cho công trình thủy lợi vận hành theo nhu cầu. Sau 2 đợt lấy nước, tổng diện tích có nước cả khu vực đạt 99%, diện tích còn lại chủ động nguồn nước.
Sau 2 đợt lấy nước, tổng diện tích có nước cả khu vực đạt 99%, diện tích còn lại chủ động nguồn nước.
Để bảo đảm bổ sung nước cho hạ du theo kế hoạch, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã tăng cường phát điện trước các đợt lấy nước khoảng 2,5-3 ngày để dâng mực nước hạ du sông.
Mực nước trên hệ thống sông Hồng trong các đợt lấy nước cơ bản phù hợp với kịch bản tính toán dự báo, tạo điều kiện các công trình thủy lợi đã được sửa chữa, nâng cấp hạ thấp cao trình lấy nước, các trạm dã chiến và các cống lấy nước vùng triều có điều kiện vận hành tốt. Tuy nhiên, do tình trạng hạ thấp mực nước trên hệ thống sông tiếp tục diễn biến nhanh, dẫn đến các công trình chưa được đầu tư nâng cấp như cống Liên Mạc (thành phố Hà Nội), Long Tửu (tỉnh Bắc Ninh) không đủ điều kiện vận hành lấy nước trong các đợt lấy nước.
Trong cả 2 đợt lấy nước, xâm nhập mặn ở hạ du khu vực thành phố Hải Phòng tăng cao, diễn biến rất khác so với các năm trước đây, ảnh hưởng đến hiệu quả lấy nước của các công trình thủy lợi thuộc hệ thống thủy lợi Đa Độ và Tiên Lãng.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc lấy nước của từng đợt được xác định phù hợp với kỳ triều cường, tính toán cụ thể bằng mô hình toán để xác định khoảng thời gian điều tiết nước phù hợp với nhu cầu lấy nước phục vụ gieo cấy của các địa phương và tiết kiệm nguồn nước cho các hồ chứa thủy điện.
Một số công trình lấy nước được nâng cấp kịp đưa vào vận hành ở thành phố Hà Nội (các trạm bơm dã chiến Phù Sa, Trung Hà) đã giải quyết khó khăn về nguồn nước cho huyện Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai và thị xã Sơn Tây, huyện Ba Vì, giúp đẩy nhanh tiến độ lấy nước chung của địa phương.
Các cửa lấy nước, hệ thống kênh dẫn nước trong các hệ thống công trình thủy lợi được các địa phương đầu tư nạo vét tốt đã tạo thuận lợi cho việc dẫn nước vào ruộng. Các địa phương đã chủ động tổ chức vận hành sớm công trình để lấy nước trước đợt xả nước, đồng thời tích trữ trong các vùng trũng, ao hồ, hệ thống kênh mương để đưa nước lên ruộng trong thời gian giữa các đợt lấy nước.
Thời tiết có mưa trong đợt 1 đã giúp nâng cao hiệu quả vận hành các công trình thủy lợi, tăng tiến độ lấy nước của các địa phương.
Tuy nhiên, tình trạng hạ thấp lòng dẫn sông Hồng tiếp tục diễn biến phức tạp làm mực nước sông tiếp tục bị hạ thấp, ảnh hưởng đến hiệu suất lấy nước của các công trình thủy lợi. Thực tế, trong đợt 1, các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà và Tuyên Quang đã vận hành với lưu lượng lớn, nhưng thời gian mực nước tại Trạm Thủy văn Hà Nội chỉ đạt trung bình 1,58 m, cao nhất đạt 2,06 m.
Xâm nhập mặn ở khu vực hạ du sông Hồng có xu hướng tăng nhanh trong một số năm gần đây gây ảnh hưởng đến khả năng lấy nước của công trình thủy lợi, làm giảm tiến độ lấy nước ở các địa phương như Hải Phòng, Hải Dương, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải...
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp, việc tiếp tục đầu tư các trạm bơm có thể vận hành lấy nước chủ động, hạn chế phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ chứa thủy điện vẫn là giải pháp hiệu quả nhất trong giai đoạn hiện nay để thích ứng với tình trạng mực nước sông bị hạ thấp.
Bên cạnh đó, cần thiết phải tiếp tục rà soát, bổ sung, duy trì hoạt động các trạm bơm dã chiến có khả năng vận hành không phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ chứa thủy điện, sẵn sàng thích ứng với tình trạng mực nước sông bị hạ thấp bất thường. Đồng thời, tăng cường giám sát và có giải pháp thích ứng trước mắt và lâu dài đối với tình trạng xâm nhập mặn ở vùng hạ du đang và khả năng sẽ tiếp tục biến động bất lợi trong thời gian tới.
Vụ Đông Xuân năm 2023-2024, khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ canh tác 492.946 ha lúa.