Theo đó, ngành thuế đã áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động thương mại điện tử theo 8 nhóm nền tảng gồm: nền tảng sàn giao dịch thương mại điện tử; website/ứng dụng thương mại điện tử; nền tảng mạng xã hội; nền tảng giao thông, vận tải, giao nhận; nền tảng đại lý; nền tảng thuê bao; nền tảng quảng cáo; nền tảng kho ứng dụng.
Bên cạnh đó, ngành thuế cũng phân loại người nộp thuế tham gia hoạt động thương mại điện tử theo 2 nhóm chính. Cụ thể, cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong trong nước bao gồm chủ sở hữu nền tảng có hoạt động thương mại điện tử, tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong nước thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử, mạng xã hội và các nền tảng khác.
Ngoài ra, cung cấp hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới gồm nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam; tổ chức, cá nhân Việt Nam có thu nhập từ hoạt động đăng tải sản phẩm, nội dung thông tin số trên các nền tảng nước ngoài; tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử và các nền tảng khác.
Theo số liệu quản lý thuế trong 2 năm gần nhất đã ghi nhận kết quả thu thuế từ các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, năm 2022 doanh thu quản lý thuế là 3,1 triệu tỷ đồng (gần 130,57 tỷ USD), với số thuế đã nộp là 83 nghìn tỷ đồng; năm 2023 doanh thu quản lý là 3,5 triệu tỷ đồng (gần 146,28 tỷ USD), số thuế đã nộp là 97 nghìn tỷ đồng.
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Mai Sơn, Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan trong lĩnh vực thương mại điện tử thông qua việc ký kết các văn bản thỏa thuận phối hợp tham mưu trình Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 30/05/2023 về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu để phục vụ phát triển TMĐT, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệ.
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Mai Sơn, để quản lý thuế hiệu quả hoạt động thương mại điện tử, chính sách pháp luật thuế và chính sách pháp luật chuyên ngành cần được củng cố, sửa đổi, bổ sung nhằm bao quát toàn bộ các hoạt động thương mại điện tử. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi trong việc kê khai, nộp thuế, sử dụng hóa đơn điện tử đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử.
Ngành thuế tiếp tục rà soát và làm giàu cơ sở dữ liệu, thương mại điện tử từ các nguồn thông tin từ các bộ, ngành; từ các tổ chức kinh doanh trong hệ sinh thái thương mại điện tử. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, ngành thuế tiếp tục tổ chức dữ liệu, phân tích rủi ro trong đó có sử dụng phương pháp học máy - áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để xử lý dữ liệu, đưa ra các cảnh báo và triển khai các biện pháp quản lý thuế phù hợp theo từng đối tượng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử theo nguyên tắc quản lý rủi ro.
Đồng thời, tiếp tục triển khai hiện đại hóa quản lý thu, nộp thuế đặc biệt đối với nhóm người nộp thuế là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa trong việc thực hiện nghĩa vụ khai thuế, nộp thuế theo hình thức điện tử.