Tại cuộc họp, sau khi nghe các báo cáo của Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tổng công ty Điện lực Dầu khí (PV Power); Tổng công ty Khí Việt Nam (PVGas) về tình hình triển khai các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi trong Quy hoạch điện VIII, các đại biểu tham dự hội nghị đã thảo luận, đóng góp ý kiến về giải pháp thúc đẩy triển khai các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi.
Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất nhận định các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần chuyển dịch năng lượng để thực hiện mục tiêu trung hoà carbon vào năm 2050 như cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26.
Việc cần báo cáo Chính phủ và Quốc hội có chủ trương về cơ chế chính sách đặc thù để tháo gỡ các vướng mắc chưa được pháp luật quy định trong quá trình triển khai các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi là cấp thiết để đảm bảo thực hiện các dự án theo Quy hoạch điện VIII. Trên cơ sở đó, hội nghị thống nhất cần sớm báo cáo, kiến nghị cấp thẩm quyền xem xét để có Nghị quyết, chủ trương về cơ chế, chính sách đối với các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi.
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp điện cho hệ thống điện Quốc gia. Theo Quy hoạch điện VIII, từ nay đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện bổ sung từ các dự án điện khí là 30.424 MW và điện gió ngoài khơi là 6.000 MW, chiếm khoảng 50% tổng công suất điện cần bổ sung. Đồng thời việc phát triển nguồn điện khí và điện gió ngoài khơi sẽ giúp Việt Nam thực hiện được cam kết trung hoà carbon đến năm 2050, bởi các dự án điện khí là những nguồn điện chạy nền, linh hoạt, ổn định sẽ hỗ trợ cho các dự án điện gió và điện mặt trời để đảm bảo an ninh cung cấp điện.
Bộ trưởng cũng chỉ ra một số khó khăn, vướng mắc chưa được pháp luật hiện hành quy định cụ thể để triển khai thực hiện các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi và thống nhất cần sớm báo cáo Chính phủ để kiến nghị với Quốc hội có Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù cho việc triển khai các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi, đáp ứng tiến độ theo Quy hoạch điện VIII. Riêng dự án Điện gió ngoài khơi cần đưa vào danh mục dự án quan trọng quốc gia cần được áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt.
Để thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án điện khí (khí khai thác trong nước và LNG) và điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch điện VIII, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và hoạt động cung ứng điện trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Khí Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Dầu khí khẩn trương rà soát các quy định của pháp luật và căn cứ vào tình hình thực tế triển khai các dự án cũng như tham khảo kinh nghiệm của các nước có thế mạnh về phát triển điện khí, điện gió ngoài khơi để có đề xuất, báo cáo cụ thể với Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương trước ngày 20/12/2023.
Đồng thời giao Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan, trên cơ sở báo cáo của các đơn vị, tổng hợp báo cáo Chính phủ để kiến nghị Quốc hội xem xét, ban hành nghị quyết chuyên đề về các cơ chế chính sách đặc thù trong triển khai thực hiện các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch điện VIII.
Theo Quy hoạch điện VIII thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023, tổng công suất đặt các nguồn điện đến năm 2030 là 150,489 GW, gần gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay, khoảng 80 GW. Trong đó tổng công suất các nguồn điện khí phải đầu tư xây dựng mới là 30.424 MW (khí trong nước có 10 dự án với tổng công suất 7.900 MW và LNG có 13 dự án với tổng công suất 22.824 MW); Tổng công suất các nguồn điện gió ngoài khơi khoảng 6.000 MW và có thể tăng lên trong trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý.
Thực tế triển khai dự án điện khí (bao gồm: lựa chọn nhà đầu tư, Lập, phê duyệt FS, đàm phán hợp đồng mua bán điện, thu xếp vốn vay và thực hiện hợp đồng EPC) cần khoảng thời gian từ 7 - 8 năm. Đối với dự án điện gió ngoài khơi, thời gian thực hiện cần khoảng từ 6-8 năm kể từ lúc khảo sát. Do đó, việc triển khai các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi để đáp ứng tiến độ đưa vào vận hành trước năm 2030 là thách thức không hề nhỏ và cần sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền cũng như sự phối hợp giữa các đơn vị có liên quan nhằm góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia cũng như thực hiện mục tiêu trung hoà cacbon vào năm 2050 như cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26.