Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 8.950 đồng/kg, giá bình quân là 8.929 đồng/kg, tăng 21 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho tăng trung bình 42 đồng/kg, ở mức 10.192 đồng/kg; giá cao nhất là 10.900 đồng/kg.
Tuy nhiên, giá các mặt hàng gạo có sự điều chỉnh giảm nhẹ. Theo đó, gạo 5% tấm có giá cao nhất 15.400 đồng/kg, giá bình quân 15.286 đồng/kg, giảm 14 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 15.200 đồng/kg, giá bình quân 15.050 đồng/kg, giảm 58 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 15.000 đồng/kg, giá bình quân 14.758 đồng/kg, giảm 108 đồng/kg.
Giá gạo xát trắng loại 1 giảm 13 đồng/kg, giá trung bình là 15.650 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 giảm 25 đồng/kg, trung bình là 13.3 đồng/kg. Giảm mạnh nhất là tấm 1/2 với mức 136 đồng/kg, cao nhất là 12.700 đồng/kg, trung bình là 11.493 đồng/kg.
Tại An Giang, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giá các loại lúa như: Đài thơm 8 từ 9.400 – 9.700 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg; nàng Hoa 9 giá từ 9.200 – 9.400 đồng/kg cũng tăng 200 đồng/kg; OM 18 ở mức từ 9.400 – 9.700 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg; IR 50404 từ 8.700 – 9.000 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa Nhật từ 7.800 - 8.000 đồng/kg; OM 5451 từ 9.400 – 9.500 đồng/kg, cũng tăng 300 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 16.000 – 16.500 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 19.000-20.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 17.000 – 19.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 19.500 đồng/kg…
Thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, An Giang đã xây dựng kế hoạch chi tiết cho 150.000 ha đến năm 2030 để tham gia. Ngành nông nghiệp đã làm việc với 11 huyện, thị, thành và thống nhất lộ trình sẽ triển khai đề án đến năm 2030.
Năm 2024, An Giang có diện tích tham gia đề án trong vụ Đông Xuân với diện tích gần 40.000 ha; vụ Hè Thu diện tích gần 48.500 ha; vụ Thu Đông với diện tích gần 60.000 ha. Đến năm 2025, tổng diện tích của tỉnh An Giang đăng ký Đề án với diện tích gần 104.000 ha.
Về xuất khẩu, các thương nhân cho biết gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 655 - 665 USD/tấn trong tuần qua, không thay đổi so với một tuần trước.
Trong khi đó, giá gạo đồ xuất khẩu của Ấn Độ đã giảm trong tuần này do nhu cầu chậm lại, ngay cả khi quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới này đối mặt với tình trạng gián đoạn tại một hải cảng quan trọng do thời tiết.
Gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ đã giảm từ mức 500 - 507 USD/tấn hồi tuần trước xuống còn từ 497 - 505 USD/tấn vào tuần qua. Mức giảm một phần do phía khách hàng tạm dừng thu mua sau khi mua vào số lượng gạo khá lớn trong những tuần gần đây.
Một nhà xuất khẩu có trụ sở tại thành phố Raipur, miền Trung Ấn Độ cho biết hoạt động bốc hàng tại cảng Kakinada đã bị gián đoạn, sau khi bão Michaung đổ bộ vào bờ biển phía Nam Ấn Độ hôm thứ Ba tuần này (5/12). Các quan chức đang đánh giá thiệt hại do cơn bão gây ra cho hải cảng quan trọng trên cũng như những khu vực bị bão ảnh hưởng.
Một thương lái ở Thành phố Hồ Chí Minh cho biết hoạt động giao dịch trầm lắng do giá quá cao đối với một số người mua. Nhưng thương lái cho rằng giá sẽ không sớm giảm, do nguồn cung hạn chế và giá lúa trong nước cao.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng giảm nhẹ xuống còn từ 620 - 625 USD/tấn so với mức 630 USD hồi tuần trước do nhu cầu chuyển sang các nước Đông Nam Á khác.
Một thương nhân có trụ sở tại Bangkok dự kiến sẽ nguồn cung bổ sung trong quý I/2024 nhờ vụ thu hoạch trái vụ. Một thương nhân khác cho biết các nhà máy gạo vẫn đang ngừng mua hàng, dự đoán giá sẽ tiếp tục tăng và dự kiến mức này sẽ giữ nguyên cho đến cuối năm nay.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản tại thị trường Mỹ đồng loạt giảm trong phiên 8/12, dẫn đầu là lúa mỳ.
Chốt phiên này tại sàn giao dịch hàng hóa Chicago (Mỹ), giá ngô giao tháng 3/2024 giảm 2,5 xu (tương đương 0,51%) xuống 4,855 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao tháng 3/2024 cũng giảm 10,5 xu (1,63%) xuống 6,3175 USD/bushel. Giá đậu tương giao tháng 1/2024 giảm 7,75 xu (0,59%) xuống 13,04 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Sự suy yếu trên diễn ra sau báo cáo vụ mùa tháng 12/2023 cùng báo cáo Ước tính cung và cầu nông nghiệp thế giới không mấy biến động của Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Theo đó, báo cáo đã cắt giảm ước tính trữ lượng ngô của Mỹ giai đoạn 2023-2024 xuống còn 2.131 triệu bushel, giảm 25 triệu bushel. Xuất khẩu ngô của Mỹ vào cùng niên vụ ước đạt đạt 2.100 triệu bushel, tăng 439 triệu bushel so với năm ngoái.
Cũng theo báo cáo, lượng nhập khẩu ngô của Trung Quốc giai đoạn 2023-2024 dự kiến không thay đổi ở mức 123 triệu tấn.
Dự trữ đậu tương cuối niên vụ 2023-2024 của Mỹ không thay đổi ở mức 245 triệu bushel. Nhập khẩu đậu nành của Trung Quốc giai đoạn 2023-2024 tăng 2 triệu tấn lên mức cao kỷ lục 102 triệu tấn.
Thị trường cà phê thế giới cho thấy, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều giảm. Hợp đồng giao tháng 1/2024 giảm 20 USD xuống 2.569 USD/tấn và hợp đồng giao tháng 3/2024 giảm 15 USD còn 2.526 USD/tấn. Đây đều là các mức giảm rất đáng kể.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng đi xuống. Hợp đồng giao tháng 3/2024 giảm 0,35 xu xuống 177,15 xu/lb và kỳ hạn giao tháng 5 giảm 0,15 xu còn 175,50 xu/lb (1 lb =0,4535 kg).
Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm 200 – 300 đồng, xuống dao động trong khung 60.000 – 60.600 đồng/kg. Giá cà phê tươi vẫn giao dịch quanh mức 12.800 đồng/kg.
Báo cáo mới nhất của Bộ Lao động Mỹ cho thấy thị trường việc làm tháng 11/2023 tốt hơn dự kiến của thị trường. Điều này đã dẫn tới suy đoán về khả năng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ vẫn mạnh tay trong việc thắt chặt tiền tệ, đẩy đồng USD tăng lên mức cao 3 tuần, làm dòng vốn đầu cơ rút khỏi các sàn hàng hóa để chuyển sang chứng khoán.
Giá cà phê trên hai sàn thế giới còn chịu ảnh hưởng từ báo cáo thương mại tháng 10 của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) cho thấy xuất khẩu toàn cầu tăng. Viện Địa lý và Thống kê Brasil (IBGE) cũng điều chỉnh ước báo sản lượng vụ mùa 2023 của Brazil tăng, cho dù vào chu kỳ “hai năm một” cây cà phê Arabica cho sản lượng thấp.