Trong khuôn khổ chuyến thăm, các nhà lãnh đạo hai nước tập trung thảo luận phương hướng thúc đẩy quan hệ kinh tế-thương mại song phương, đặc biệt là trên các lĩnh vực quan trọng như tài chính, ngân hàng và dầu khí, cũng như các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm.
Việt Nam và Iran thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 4/8/1973. Trong hơn 40 năm qua, quan hệ hai nước đã có những bước tiến quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế-thương mại, văn hóa, giáo dục và khoa học-kỹ thuật. Thời gian qua, hai nước đã tăng cường trao đổi các đoàn cấp cao, như chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch nước Lê Đức Anh tới Iran hồi tháng 5/1994, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thăm và làm việc tại Tehran tháng 7/1999, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm cấp nhà nước vào tháng 10/2002... Nhiều quan chức cấp cao Iran cũng đã sang thăm Việt Nam, như Tổng thống Akbar Hashemi Rafsanjani thăm cấp nhà nước hồi tháng 10/1995, Chủ tịch Quốc hội Akbar Nateq thăm tháng 12/1998...
Đến nay, Việt Nam và Iran đã ký kết nhiều thỏa thuận quan trọng, trong đó đáng chú ý là Thoả thuận chung về hợp tác kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật (năm 1993); Hiệp định về thương mại, lãnh sự và thành lập Ủy ban hỗn hợp (năm 1994); Hiệp định hợp tác văn hoá (năm 1995); Thoả thuận tham khảo và hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao (năm 2000); Hiệp định vận tải hàng không (năm 2001); Hiệp định Vận tải biển thương mại (năm 2002); Hiệp định xúc tiến và bảo hộ đầu tư; Biên bản Ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực thủy sản giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Iran; Biên bản Ghi nhớ về hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với Phòng Thương mại, Công nghiệp và Khoáng sản Iran; Biên bản đàm phán thống nhất nội dung dự thảo Hiệp định cấp chính phủ về hợp tác và tương trợ hành chính trong lĩnh vực hải quan giữa Việt Nam và Iran ( năm 2009). Đặc biệt, Iran luôn mong muốn hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực công nghiệp, dầu mỏ, xây dựng, giao thông vận tải, sản xuất xi măng, phân bón.... Đây là những lĩnh vực Iran có lợi thế so sánh. Quốc gia Trung Đông này cũng có nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng nông sản từ Việt Nam.
Mặc dù có nhiều tiềm năng, song hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Iran còn rất hạn chế. Kim ngạch thương mại hai chiều dù đã tăng đáng kể từ 6,5 triệu USD năm 2001 lên 185,6 triệu USD năm 2011, nhưng đã giảm mạnh xuống còn gần 107 triệu USD năm 2015, trong đó xuất khẩu của Việt Nam chiếm hơn 72%. Ngoài nguyên nhân tác động của những lệnh cấm vận mà quốc tế áp đặt đối với Iran, việc hai bên chưa thống nhất được các phương thức thanh toán, cũng như giới doanh nghiệp hai nước còn thiếu thông tin về thị trường của nhau là những lý do chính khiến hợp tác kinh tế giữa hai nước chưa tương xứng tiềm năng, hợp tác đầu tư cũng vấp phải không ít khó khăn.
Bước sang năm 2016, với việc các lệnh cấm vận kinh tế nhằm vào Iran được bãi bỏ cùng với sự kiện Kế hoạch hành động toàn diện chung mà Tehran đạt được với Nhóm P5+1 (gồm Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc và Đức) có hiệu lực, cánh cửa hội nhập trở lại với nền kinh tế thế giới đang dần mở rộng đối với Iran. Đây cũng là cơ hội hấp dẫn cho nhiều đối tác quốc tế, trong đó có Việt Nam.
Với khoảng 80 triệu dân, Iran là thị trường lớn tại khu vực Trung Đông, trong khi Việt Nam là cửa ngõ vào thị trường Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Trong 5 năm qua, các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường Iran là thủy sản, gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, mây tre đan, cao su, các sản phẩm cao su, các sản phẩm chất dẻo, linh kiện, máy móc, linh kiện điện tử, dệt may và một số sản phẩm khác. Trong khi đó, hàng hóa Iran xuất vào thị trường Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu, các sản phẩm hóa dầu, kim loại thường, lúa mì, nguyên liệu dệt may-da giày...
Trong các cuộc tiếp xúc giữa các cấp lãnh đạo hai nước thời gian qua, Iran và Việt Nam đều bày tỏ mong muốn phát huy truyền thống hợp tác hữu nghị, đưa mối quan hệ hợp tác lên một tầm cao mới vì lợi ích chung của nhân dân hai nước, đồng thời thúc đẩy hợp tác thương mại và đầu tư, nhất là trong lĩnh vực dầu khí, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính và ngân hàng. Đặc biệt, bên lề Hội nghị Cấp cao Á - Phi 2015, diễn ra hồi tháng 4/2015 tại thủ đô Jakarta của Indonesia, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội kiến với Tổng thống Iran Hassan Rouhani, trong đó hai nhà lãnh đạo khẳng định mong muốn phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác song phương trên các lĩnh vực, đồng thời nhất trí rằng hai bên cần tìm kiếm các phương thức nhằm thúc đẩy kim ngạch thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tìm kiếm cơ hội hợp tác.
Một trong những ưu tiên hàng đầu hiện nay của Chính phủ Iran là tạo điều kiện thuận lợi, áp dụng các cơ chế ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài và tiếp nhận công nghệ tiên tiến. Tehran đang bắt đầu triển khai các dự án nâng cấp và phát triển hệ thống hạ tầng dầu khí, vốn đã xuống cấp nghiêm trọng do thiếu đầu tư trong thời gian bị cấm vận, cũng như xây dựng hạ tầng kinh tế-xã hội khác, với nhu cầu vốn lên tới hàng trăm tỷ USD. Các lĩnh vực chủ chốt như dầu mỏ, khí đốt, hàng không, khai khoáng, thép... được chú trọng phát triển.
Là quốc gia giàu tài nguyên ở khu vực Trung Đông, Iran đứng thứ tư thế giới về trữ lượng dầu thô đã qua kiểm chứng (gần 158 tỷ thùng, chiếm hơn 10% trữ lượng của thế giới) và thứ hai toàn cầu về trữ lượng khí đốt (33,8 nghìn tỷ m3, chiếm 18,2% trữ lượng toàn thế giới). Iran có ví trị vô cùng thuận lợi, làm bàn đạp để các sản phẩm có thể thông qua thị trường này vào khu vực Trung Đông. Iran là nền kinh tế lớn thứ 2 tại Trung Đông-Bắc Phi (MENA), với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 400 tỷ USD, sau Saudi Arabia. Việc Mỹ và phương Tây bãi bỏ cấm vận kinh tế đang đem lại làn gió mới cho nền kinh tế Iran. Giới chuyên gia dự báo kinh tế Iran có thể tăng trưởng ít nhất 4% năm 2016.