Theo cáo trạng, ngày 13/9/2021, Cục An ninh kinh tế, Bộ Công an nhận được đơn của chị Bùi Thị Thu T. (trưởng phòng một chi nhánh Ngân hàng VIB ở Hà Nội) tố cáo Phạm Quan Tuân đã bán cho chị gần 19 triệu Yên Nhật giả để chiếm đoạt hơn 3,7 tỷ đồng.
Qua điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ Kiều Hoàng Long đã mua 19 lốc Yên Nhật, mỗi lốc 100 tờ mệnh giá 10.000 Yên Nhật từ Lê Thị Bé. Trong khi trao đổi, Bé có giới thiệu với Long đây là tờ Yên Nhật có in hình Thái tử của Nhật Bản, là “trái phiếu cổ” và tờ này bên Nhật vẫn được bán dưới dạng đồ lưu niệm, không lưu hành trên thị trường. Nếu Long bán được sẽ được hưởng chênh lệch. Tuy nhiên, Long khẳng định đây không phải là trái phiếu cổ mà là tiền Yên Nhật cũ đã hết giá trị lưu hành.
Nhưng hai bên vẫn thỏa thuận mua bán. Từ tháng 6 - 8/2021, Bé đã 3 lần chuyển số tiền Yên Nhật này cho Long. Ngoài ra, Long còn dự kiến mua thêm 30 lốc tiền Yên Nhật cùng loại nhưng Bé chưa giao hàng. Long đã thanh toán tổng cộng 4,2 tỷ đồng để lấy 19 lốc Yên Nhật nói trên và đặt cọc mua thêm 30 lốc nữa.
Long đã nhiều lần tìm cách tiêu thụ số tiền này nhưng bị một số người phát hiện là tiền giả. Long mang tiền đến ngân hàng đổi thì bị từ chối với lý do tiền này không lưu hành. Do vậy Long tiếp tục cất giữ.
Qua môi giới, Long đã kết nối được với chị Bùi Thị Thu T. để bán số tiền nói trên với giá 3,7 tỷ đồng. Sau khi trừ các khoản “hoa hồng” môi giới, Long nhận lại 3 tỷ đồng.
Sau khi nhận được Yên Nhật, chị T. mang số tiền này đến cửa hàng thu đổi ngoại tệ ở phố Hà Trung thì được biết đây là tiền cũ phát hành năm 1958, không đổi được tiền. Chị T. liên hệ để trả lại tiền nhưng các đầu mối môi giới không đồng ý vì giao dịch đã hoàn thành. Chị T. đã làm đơn tố cáo ra cơ quan công an. Sau khi làm việc với cơ quan công an, biết số tiền Yên Nhật trên là tiền giả, một số cá nhân liên quan đã tự nguyện trả lại số tiền hưởng lợi.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Bé khai, năm 2005, khi đang sinh sống ở Campuchia có quen biết một đôi vợ chồng và được nhờ nhận cầm cố 50 lốc trái phiếu cổ với giá 6 tỷ đồng. Bị cáo không biết giá trị thật của trái phiếu cổ nhưng do tin tưởng và muốn giúp đỡ bạn bè nên đồng ý cầm cố. Sau đó, đôi vợ chồng này không quay lại lấy trái phiếu cổ nên Bé mang ra các cửa hàng thu đổi ngoại tệ thì đều bị từ chối với lý do không có giá trị, không còn lưu hành. Bị cáo đã mang về Việt Nam tiêu thụ. Số tiền bán Yên Nhật, bị cáo Bé đã sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân.