Theo cáo trạng, do có quan hệ thân thiết với vợ chồng bị cáo Hà, nên từ năm 2012 đến tháng 1/2016, bà Nguyễn Bạch M. (sinh năm 1960, trú tại quận Cầu Giấy, Hà Nội) nhiều lần gửi tiền tiết kiệm tại Ngân hàng NCB, Phòng giao dịch số 14, Chi nhánh Hà Nội. Thời điểm đó, bị cáo Hà là Trưởng phòng, phụ trách chung các hoạt động của phòng giao dịch số 14.
Đến cuối năm 2015, do cần tiền kinh doanh, bị cáo Hà nói dối bà M. việc Ngân hàng NCB đang có loại sản phẩm mới ưu đãi, chuyển từ dạng tiết kiệm sang dạng gửi bảo lãnh ngân hàng, với lãi suất 12% - 13%. Bị cáo thuyết phục bà M. chuyển sang dùng sản phẩm mới. Bị cáo còn nói rằng, nếu bà M. muốn rút tiền, đích thân Hà sẽ đem tiền đến cho bà M., chỉ thay sổ tiết kiệm hiện tại bằng chứng từ “Bảng kê tiền gửi”. Nếu muốn chuyển sang gói sản phẩm mới này, bà M. phải ký tất toán toàn bộ số tiền đang gửi tiết kiệm tại Ngân hàng NCB.
Do tin tưởng Hà nên bà M. rút toàn bộ tiền tại Ngân hàng NCB để chuyển cho Hà. Sau mỗi lần bà M. giao tiền, Hà đều đưa cho bà M. “Bảng kê tiền gửi” có chữ ký của Hà và đóng dấu của Ngân hàng NCB, Phòng giao dịch số 14, Chi nhánh Hà Nội. Từ ngày 6/10/2015 - 30/7/2016, bà M. đã 6 lần giao tiền cho Hà với tổng số hơn 8,2 tỷ đồng. Trong đó, gần 7,1 tỷ đồng là tiền tất toán gửi tiết kiệm tại Ngân hàng NCB, hơn 1,1 tỷ đồng là tiền bà M. đưa thêm cho Hà.
Cuối năm 2016, bà M. yêu cầu Hà cho rút tiền, nhưng bị cáo hứa hẹn nhiều lần và không thực hiện. Ngày 12/1/2017, bà M. đến Phòng giao dịch số 14, Ngân hàng NCB làm thủ tục rút tiền và đưa các Bảng kê tiền gửi cho nhân viên ngân hàng thì được biết, toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm của bà đã bị rút và tất toán từ lâu. Những Bảng kê tiền gửi do Hà ký đưa cho bà M. không phải biểu mẫu của Ngân hàng nên không có giá trị để rút tiền. Lúc này, bà M. làm đơn khiếu nại gửi Ngân hàng NCB, đề nghị kiểm tra, giải quyết, trả lại tiền. Phía Ngân hàng NCB gửi cho bà M. thông báo việc Hà đã nghỉ việc, Ngân hàng không có sản phẩm bảo lãnh ngân hàng, các giao dịch giữa bà M. và Hà chỉ là giao dịch cá nhân và không được hạch toán vào hệ thống Ngân hàng NCB.
Tại cơ quan điều tra, bị cáo Hà khai, sau khi nhận tiền từ bà M., bị cáo đem cho một số cá nhân và công ty khác vay. Đến nay, bị cáo chưa đòi được tiền của các cá nhân và công ty trên. Hiện, bị cáo Hà đã trả cho bà M. 6,1 tỷ đồng, còn chiếm đoạt hơn 2,1 tỷ đồng.
Trước khi vụ án được đưa ra xét xử, bà M. có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hà, để bị cáo trả dần hàng tháng số tiền còn lại. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cho rằng, vụ án này không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại nên bị cáo Hà vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Mở rộng điều tra, cơ quan công an đã làm rõ, chồng bà M. còn cho bị cáo Hà vay hơn 3,5 tỷ đồng. Bị cáo Hà mới trả được hơn 1,2 tỷ đồng. Xác định đây là quan hệ dân sự nên cơ quan điều tra không xem xét giải quyết.