Tại phiên tranh luận, đa số ý kiến của các bị cáo và luật sư đồng ý với quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát về tội danh; bị cáo đã nhận thức được sai phạm, ăn năn hối cải; tự nguyện khắc phục hậu quả; xin giảm nhẹ hình phạt…
Tuy nhiên, trong phần bào chữa, có luật sư hoặc bị cáo lại cho rằng hồ sơ vụ án, kết luận điều tra, cáo trạng của Viện Kiểm sát chưa có cơ sở xác định 30.403 nhà đầu tư đã mua cổ phiếu ROS ban đầu hình thành từ vốn góp nâng khống là bị hại của vụ án; chưa có cơ sở xác định bị cáo Trịnh Văn Quyết có ý thức chiếm đoạt tài sản; chưa có cơ sở xác định số tiền chiếm đoạt là hơn 3.621 tỷ đồng; khi ký các chứng từ, thủ tục không biết mục đích để làm gì; không bàn bạc, không thỏa thuận; đánh giá về vai trò đồng phạm đối với tội danh "Lừa đảo chiếm đoạt tại sản".
Về luận điểm này, đại diện Viện Kiểm sát khẳng định: Bị cáo Trịnh Văn Quyết là chủ mưu trong vụ án, chuẩn bị mọi điều kiện để tổ chức, chỉ đạo, phân công, giao việc hoặc nhờ các bị cáo khác thực hiện nhiệm vụ thông qua một chuỗi hành vi gian dối, có chủ động, được thực hiện một cách bài bản trong nhiều năm với nhiều lần nâng vốn góp khống. Hành vi này được bắt đầu từ việc mua Công ty Green Belt (sau đổi tên thành Công ty FAROS), sau đó 5 lần nâng khống vốn góp chủ hữu từ 1,5 tỷ đồng lên thành 4.300 tỷ đồng (trong đó có hơn 3.102 tỷ đồng là vốn góp khống). Tiếp đó, các bị cáo đã hợp thức hồ sơ, thủ tục đưa thông tin gian dối về vốn góp, niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn HOSE làm cho các nhà đầu tư tưởng là có vốn thật, sử dụng sàn HOSE làm công cụ, phương tiện thực hiện bán hơn 391 triệu cổ phiếu ROS có giá trị nâng khống được giao dịch qua 30.403 tài khoản chứng khoán (là những tài khoản mua cổ phiếu có giá trị nâng khống ban đầu). Qua đó, thu được hơn 4.818 tỷ đồng, chiếm đoạt số tiền hơn 3.621 tỷ đồng của các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán, sử dụng vào mục đích cá nhân. Vì vậy, Viện Kiểm sát cho rằng, bị hại trong vụ án phải được xác định tại thời điểm hành vi chiếm đoạt đã thực hiện xong.
Công tố viên nhấn mạnh, các bị cáo còn lại đều là người thân, nhân viên cấp dưới, họ hàng, người quen của bị cáo Quyết và 2 em gái bị cáo là Trịnh Thị Minh Huế, Trịnh Thị Thúy Nga được bị cáo Quyết tin tưởng bổ nhiệm, phân công, chỉ định, hoặc giao thực hiện hàng loạt hành vi gian dối như: Nhờ đứng tên là cổ đông góp vốn, nhận ủy thác đầu tư để hợp thức việc nâng khống vốn góp; ghi nhận thông tin gian dối này vào Báo cáo tài chính kiểm toán, Bản cáo bạch để hoàn thiện hồ sơ niêm yết cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán. Các bị cáo thuộc Vụ Giám sát công ty đại chúng Ủy ban chứng khoản Nhà nước, Trung tâm Lưu ký chứng khoản Việt Nam và Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (sàn HOSE) đã sử dụng những thông tin gian dối trên Báo cáo tài chính kiểm toán và hồ sơ tài liệu của Công ty Faros cung cấp để chấp thuận công ty đại chúng, đăng ký chứng khoán và niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn HOSE. Với động cơ, mục đích, thủ đoạn nêu trên, Trịnh Văn Quyết đã sử dụng sàn HOSE làm phương tiện để bán hơn 391 triệu cổ phiếu hình thành từ vốn góp nâng khống giao dịch qua 30.403 tài khoản chứng khoán, chiếm đoạt hơn 3.621 tỷ đồng.
Đại diện Viện Kiểm sát khẳng định, nếu thiếu đi hành vi liên quan đến quá trình hình thành cổ phiếu ROS của bất kỳ bị cáo nào trong vụ án này, thì bị cáo Quyết không thể niêm yết, không thể bán hơn 391 triệu cho các nhà đầu tư được và bị cáo Quyết không thể thu được hơn 4.818 tỷ đồng, cũng không thể chiếm đoạt được hơn 3.621 tỷ đồng để sử dụng vào mục đích cá nhân.
Cũng tại phiên tòa, hầu hết các bị cáo có hành vi giúp sức cho Quyết, Huế và các bị cáo khác đều thừa nhận hành vi, tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, về ý thức chủ quan, bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng không biết bị cáo Quyết nâng vốn góp khống, niêm yết cổ phiếu ROS, bán chiếm đoạt tiền.
Về quan điểm này, đại diện Viện Kiểm sát khẳng định tại thời điểm tất cả bị cáo nhiều lần ký góp vốn khống, nhận tiền ủy thác đầu tư trong khi mình không có vốn góp, không có hoạt động đầu tư, buộc phải biết là ký những chứng từ gian dối là trái pháp luật, là tạo điều kiện giúp Quyết, Huế và đưa những chứng từ gian dối này cho 2 bị cáo sử dụng nên không có cơ sở xác định nội dung trên các chứng từ đã ký là thật. Các bị cáo đã ký các hồ sơ, thủ tục cho chủ trương tăng vốn, cáo bạch, báo cáo tài chính, ủy nhiệm chi chuyển tiền cho 7 tổ chức và 7 cá nhân vay vốn của FAROS không dựa trên cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế của Công ty; không thực hiện theo luật doanh nghiệp, Điều lệ công ty và pháp luật có liên quan mà thực hiện theo chỉ đạo của bị cáo Quyết, Doãn Văn Phương (Tổng Giám đốc FLC, đang bỏ trốn) và bị cáo Huế.
Đại diện Viện Kiểm sát nhấn nhấn mạnh, đây là chuỗi hành vi cố ý, bắt đầu từ việc nâng vốn góp khống đến cuối cùng là bán cổ phiếu ROS, chiếm đoạt tiền. Hành vi của bị cáo trước là tiền đề, điều kiện để các bị cáo sau thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại, hành vi của bị cáo sau là sự tiếp nối, kết quả của hành vi do bị cáo trước đã thực hiện. Vì vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố các bị cáo có vai trò đồng phạm với Quyết, Huế, Nga và các bị cáo khác là hoàn toàn có căn cứ và các bị cáo phải cùng chịu chung hậu quả số tiền bị cáo Quyết đã chiếm đoạt. Do đó, công tố viên cho rằng quan điểm này của các luật sư và bị cáo là không có cơ sở chấp nhận.
Về phân hóa trách nhiệm, công tố viên viện dẫn Kết luận điều tra, Cáo trạng nêu rõ, ngoài các bị cáo bị truy tố, còn có 188 cá nhân ký các thủ tục tạo dòng tiền, hợp thức nâng vốn góp khống, hoàn thiện thủ tục để cổ phiếu ROS được niêm yết trên sàn chứng khoán có dấu hiệu đồng phạm giúp sức của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", nhưng xét tính chất mức độ hành vi nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự. Do vậy, Viện Kiểm sát xác định, các cá nhân không bị xử lý hình sự có vai trò giúp sức ở mức độ hạn chế, không tích cực, thể hiện qua việc không giữ chức vụ tại FAROS, hoặc là cổ đông hợp thức điều kiện đăng ký công ty đại chúng, niêm yết cổ phiếu; ký chứng từ hợp thức, che giấu dòng tiền với tần suất ít hơn, giá trị thấp hơn nhiều so với các bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự là đồng phạm với vai trò giúp sức tích cực, đến mức phải xử lý hình sự.