Phía VNBA lo ngại: Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như làm tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp khi giao dịch điện tử với các TCTD. Phía VNBA cũng vừa có Công văn số 332/HHNH-PLNV gửi Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT, đơn vị chủ trì soạn thảo) góp ý Dự thảo Nghị định quy định về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy, khẳng định quan điểm nhất quán tại 3 văn bản góp ý gần đây, tiếp tục kiến nghị điều chỉnh Điều 9 dự thảo Nghị định.
Theo VNBA, nếu bắt buộc áp dụng chữ ký điện tử khi giao kết giao dịch, đầu tiên khách hàng (doanh nghiệp và cá nhân) phải thanh toán các khoản phí để được cấp, duy trì hiệu lực của chữ ký số với số tiền rất lớn.
“Hiện có khoảng 80% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số, nếu theo quy định của dự thảo Nghị định, các loại nghiệp vụ chủ yếu của TCTD như: Nhận tiết kiệm, nhận tiền gửi, cấp tín dụng, giao dịch ngoại tệ… đều yêu cầu có chữ ký điện tử khi giao kết giao dịch”, đại diện VNBA lo ngại.
Cũng theo Hiệp hội Ngân hàng, báo cáo của 1 trong 4 ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn Nhà nước, tính đến ngày 27/6, số lượng khách hàng giao dịch trên kênh số ước tính khoảng 12 triệu khách hàng, với số lượng giao dịch 6,507 triệu giao dịch/ngày (cả năm khoảng 2,3 tỷ giao dịch, bình quân 500 giao dịch/giây).
Như vậy, khi dự thảo Nghị định có hiệu lực, với chi phí khảo sát trên thị trường từ 550.000 đến 1,8 triệu đồng/năm, hàng năm khách hàng của ngân hàng này phải chi trả dịch vụ cho nhà cung cấp dịch vụ (CA Provider) lên đến từ 6.600 - 21.600 tỷ đồng, chưa kể các chi phí phát sinh liên quan đến đầu tư hạ tầng, phát triển, vận hành hệ thống nội bộ cho ngân hàng và trang cấp chứng thư số cho cán bộ trong nội bộ.
Phía VNBA băn khoăn, đó là hàng năm, các hoạt động khiếu nại, tranh chấp và tố tụng, xử lý thu hồi nợ trong khi cung cấp sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng rất lớn. Khi ngân hàng cần xuất trình các chứng cứ chứng minh về thao tác của khách hàng, hiệu lực chữ ký số, chứng thư số hoặc các thông tin liên quan đến giao kết hợp đồng, văn kiện… ngân hàng sẽ phải đề nghị bằng văn bản gửi bên thứ 3 (bên cung cấp chữ ký số).
“Như vậy vừa không đảm bảo tính kịp thời, phát sinh thêm thủ tục không đáng có bởi hệ thống công nghệ của các ngân hàng được đầu tư với số tiền vô cùng lớn đáp ứng đủ tiêu chuẩn quốc tế nếu được tạo lập chữ ký điện tử chuyên dùng cho khách hàng của mình”, đại diện VNBA lo lắng.
Không chỉ vậy, hoạt động giao dịch của ngân hàng phụ thuộc hoàn toàn vào một hoặc một vài tổ chức thứ ba về cung cấp chữ ký số công cộng gây rủi ro rất lớn cho ngành Ngân hàng; tính ứng dụng của quy định về chữ ký điện tử chuyên dùng không khả thi về mặt thực tiễn nếu phạm vi sử dụng bị hạn chế.
Tại công văn, đại diện VNBA bày tỏ, hoàn toàn đồng tình và ủng hộ hướng tới một xã hội văn minh, mỗi người dân nên có 1 chữ ký số sử dụng cho các giao dịch công ích cũng như kinh doanh, song cần phải xem xét trong bối cảnh thực tiễn từ cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, mức thích ứng dần của người dân, không làm xáo trộn hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như làm tăng chi phí đột biến cho người dân và doanh nghiệp…
Luật Giao dịch điện tử đã mở ra hướng tạo điều kiện cho người dân được quyền lựa chọn các hình thức, trong đó có chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn. “Khi người dân có mức thu nhập cao hơn, nhận thức và thấy rằng cần thiết phải có 1 chữ ký số cho riêng mình - tự họ sẽ lựa chọn và quyết định, các quy định dưới luật không nên áp đặt để tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp”, đại diện VNBA nêu.
VNBA tiếp tục kiến nghị Bộ TT-TT điều chỉnh Điều 9 dự thảo Nghị định như sau:
“Điều 9: Chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn:
Chữ ký điện tử chuyên dùng đảm bảo an toàn do cơ quan, tổ chức tạo lập, sử dụng riêng cho hoạt động của cơ quan tổ chức đó, phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao gồm:
a) Tổ chức, cá nhân sử dụng chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn trong hoạt động nội bộ của cơ quan, tổ chức tạo lập;
b) Tổ chức, cá nhân sử dụng chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn trong các hoạt động chuyên ngành hoặc lĩnh vực có cùng tính chất hoạt động, hoặc mục đích công việc và được liên kết với nhau thông qua điều lệ hoạt động, hoặc văn bản qui định về cơ cấu tổ chức, hình thức liên kết hoạt động chung;
c) Tổ chức, cá nhân khác sử dụng chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn trong giao dịch với chính cơ quan, tổ chức tạo lập chữ ký điện tử.