Theo đó, do room tín dụng cấp đầu năm ở mức tương đối thấp, nhiều ngân hàng đã chạm hạn mức tín dụng ban đầu ngay từ cuối quý I và đang chờ được Ngân hàng Nhà nước nới room.
VCBS dự báo các ngân hàng có hệ số an toàn vốn (CAR) cao và mô hình quản trị rủi ro tốt sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao hơn trung bình ngành trong dài hạn như Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank)...
VCBS kỳ vọng các ngân hàng này sẽ được cấp bổ sung room tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn đầu của quý III tới đây.
Ngoài ra, VCBS nhận định trong thời gian tới, các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc tổ chức tín dụng yếu kém như MB và Vietcombank sẽ có lợi thế về tăng trưởng tín dụng so với các ngân hàng khác.
Riêng tại MB, trong báo cáo trước đó, VCBS cho rằng ngân hàng này sẽ được ưu tiên tăng trưởng tín dụng thêm 5-10% trong năm 2022 và các năm tới, có thể tăng khoảng 30%/năm mà vẫn đảm bảo an toàn với tỷ lệ CAR duy trì ở mức 10-11%.
Ở chiều ngược lại, báo cáo cũng nhận định các ngân hàng trong diện cảnh báo có tỷ trọng cho vay các lĩnh vực rủi ro như đầu cơ bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… có thể bị hạn chế room tăng trưởng tín dụng ở mức vừa phải hơn để bảo đảm hạn chế rủi ro hệ thống.
Cụ thể, các ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản cao trong danh mục tín dụng được VCBS nhắc tới bao gồm Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu (Eximbank), Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB).
Cập nhật mới đây của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tăng trưởng tín dụng đến tháng 6/2022 đã đạt 8,15% so với cuối năm 2021, tương đương mức tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước.
Một số ngân hàng như: Vietcombank, ACB, MB đã gần chạm trần hạn mức tín dụng được cấp ngay trong 3-4 tháng đầu năm. Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại các ngân hàng khác như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBank), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)...
Lãnh đạo các ngân hàng đều cho rằng, nhu cầu vốn của doanh nghiệp sau 2 năm COVID-19 đã tăng mạnh và dự báo cơn khát vốn này sẽ vẫn tiếp tục kéo dài trong thời gian tới. Do đó, các ngân hàng đồng loạt đề xuất nới hạn mức tăng trưởng tín dụng một cách phù hợp.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cho biết room tín dụng mà các ngân hàng thương mại đăng ký trong 3 năm gần đây luôn trên 20%, vượt xa khả năng cung ứng vốn của nền kinh tế.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng từng trả lời chất vấn trước Quốc hội rằng ngân hàng nào cũng muốn tăng trưởng tín dụng nhiều, nhưng nếu đáp ứng hết hạn mức mong muốn của ngân hàng thương mại thì Việt Nam sẽ không ổn định được vĩ mô như hiện nay. Bởi nếu chiều theo nhu cầu tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại, áp lực với lạm phát là rất lớn, áp lực tăng lãi suất huy động cũng rất cao, dẫn tới lãi suất cho vay và nợ xấu tăng theo.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định Ngân hàng Nhà nước sẽ phân bổ tín dụng tới các ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc chung là, ngân hàng nào lành mạnh, quản trị tốt hơn thì được tăng trưởng tín dụng cao hơn.
Ngân hàng Nhà nước sẽ phải căn cứ vào mức độ tuân thủ của các tổ chức tín dụng về an toàn vốn (CAR), rà soát kỹ hoạt động tín dụng, cũng như tình hình tài chính của các ngân hàng. Việc nới room vì thế chắc chắn sẽ không đều.
Nhìn lại thời gian qua, VCBS đánh giá động lực tăng trưởng chính của tín dụng hệ thống ngân hàng Việt Nam chính là tín dụng bán lẻ. Theo đó, tỷ trọng tín dụng bán lẻ các ngân hàng niêm yết đã tăng từ mức 31% năm 2015 lên mức 45% tổng dư nợ tại thời điểm cuối quý I/2022. Các sản phẩm cho vay mua nhà, mua ô tô, tài chính tiêu dùng đều ghi nhận mức tăng tích cực.
Tín dụng bán lẻ và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) cũng được các ngân hàng ưu tiên hơn nhờ hệ số rủi ro khi tính CAR ở mức thấp hơn cho vay doanh nghiệp lớn theo Thông tư 41/2016/TT-Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đồng thời, phân khúc này có tỷ suất sinh lời cao hơn.
Trong khi đó, tín dụng bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp lại đang được kiểm soát chặt chẽ hơn với mục tiêu giảm thiểu rủi ro và lành mạnh hóa thị trường. Tính đến cuối tháng 4/2022, tổng dư nợ lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng tăng 10,19% so với đầu năm, chiếm 20,44% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Trong đó, khoảng 7% là dư nợ doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, còn lại là cho vay cá nhân mua nhà.
Đối với các doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, thuộc ngành nghề có hệ số rủi ro cao như doanh nghiệp bất động sản chính, giải pháp huy động vốn chính là trái phiếu. Các ngân hàng hiện nắm giữ khoảng 25% lượng trái phiếu doanh nghiệp, chiếm 2,63% tổng dư nợ tín dụng. Một số ngân hàng nắm giữ khối lượng trái phiếu doanh nghiệp lớn như Techcombank, TPBank, MB, VPBank.
VCBS kỳ vọng thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ phát triển ổn định bền vững hơn, đồng thời tháo gỡ khó khăn về vốn cho thị trường bất động sản khi các quy định mới chính thức được ban hành, bao gồm Nghị định 153/2020/CP-NĐ quy định chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đang được lấy ý kiến để sửa đổi, bổ sung.