Dự thảo nghị định đã được đưa ra lấy ý kiến của các thành viên Chính phủ và tất cả 23 ý kiến đều thống nhất thông qua.
Trong đó, Bộ Nội vụ đã rà soát, chỉnh lý và thể chế hóa một số quy định của Bộ Chính trị mới ban hành; bảo đảm thống nhất với quy định của Đảng về từ chức, miễn nhiệm.
Nhiều trường hợp được xem xét cho từ chức
Dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung Điều 65 Nghị định 1 về “Từ chức đối với công chức lãnh đạo, quản lý”. Theo đó, việc xem xét từ chức đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý được thực hiện trong các trường hợp: Tự nguyện thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; do hạn chế về năng lực hoặc không còn đủ sức khỏe, uy tín để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách xảy ra sai phạm nghiêm trọng; có trên 50% nhưng không quá 2/3 số phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ lấy phiếu theo quy định (đối tượng, quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm thực hiện theo quy định của cấp có thẩm quyền).
Bên cạnh đó, công chức lãnh đạo, quản lý là người đứng đầu lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực thì tùy tính chất, mức độ sai phạm, cấp có thẩm quyền xem xét cho từ chức. Công chức lãnh đạo quản lý là người đứng đầu để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc cấp dưới trực tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng cũng thuộc trường hợp xem xét từ chức. Dự thảo nghị định quy định thêm trường hợp bị xem xét từ chức “vì các lý do chính đáng khác”.
Dự thảo nghị định cũng quy định không xem xét cho từ chức đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nếu thuộc một trong 2 trường hợp. Một là đang đảm nhận nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia; đang đảm nhận nhiệm vụ trọng yếu, cơ mật; phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; nếu từ chức ngay sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích chung của Đảng và Nhà nước. Hai là đang trong thời gian chịu sự thanh tra, kiểm tra hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Theo dự thảo nghị định về quy trình xem xét cho từ chức, đầu tiên công chức lãnh đạo, quản lý có đơn từ chức. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn từ chức, cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công chức đang công tác có trách nhiệm trao đổi với công chức và báo cáo cấp có thẩm quyền bổ nhiệm xem xét, quyết định.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề xuất của cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ, cấp có thẩm quyền bổ nhiệm xem xét, quyết định việc cho công chức từ chức; trường hợp cần thiết vì lý do khách quan thì có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày làm việc.
Công chức không có đơn từ chức nhưng thuộc một trong các trường hợp bị xem xét từ chức thì cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc bố trí công tác khác phù hợp.
Công chức từ chức chưa được người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công chức đang công tác hoặc cấp có thẩm quyền đồng ý thì vẫn phải tiếp tục thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Công chức lãnh đạo, quản lý sau khi từ chức, nếu có nguyện vọng công tác thì cấp có thẩm quyền căn cứ vào năng lực, đạo đức, kinh nghiệm để xem xét bố trí công tác phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo, quản lý
Dự thảo nghị định cũng sửa đổi, bổ sung Điều 66 Nghị định 1 về “Miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo, quản lý”. Việc xem xét miễn nhiệm được thực hiện trong 7 trường hợp. Một là bị kỷ luật cảnh cáo hoặc khiển trách nhưng uy tín giảm sút không thể tiếp tục đảm nhiệm chức vụ. Hai là bị kỷ luật khiển trách, cảnh cáo 2 lần trở lên trong cùng thời hạn bổ nhiệm. Ba là có trên 2/3 số phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ lấy phiếu theo quy định (đối tượng, quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm thực hiện theo quy định của cấp có thẩm quyền).
Bốn là có 2 năm liên tiếp được xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ. Năm là bị cơ quan có thẩm quyền kết luận suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; vi phạm những điều đảng viên không được làm; vi phạm trách nhiệm nêu gương, ảnh hưởng xấu đến uy tín của bản thân và cơ quan, đơn vị nơi đang công tác. Sáu là bị cơ quan có thẩm quyền kết luận vi phạm tiêu chuẩn chính trị theo quy định về bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng đến mức phải miễn nhiệm. Bảy là công chức lãnh đạo, quản lý là người đứng đầu để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc cấp dưới trực tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng.
Ngoài ra, xem xét miễn nhiệm với các trường hợp khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Quy trình xem xét miễn nhiệm được thực hiện khi có đủ căn cứ, trong thời hạn 10 ngày làm việc, cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ có trách nhiệm trao đổi với công chức và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn nhiệm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề xuất. Trường hợp cần thiết vì lý do khách quan thì có thể kéo dài không quá 15 ngày làm việc.
Tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và thường vụ cấp ủy cùng cấp phải thảo luận, xác định rõ căn cứ miễn nhiệm theo đề xuất của cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ trước khi biểu quyết bằng phiếu kín.
Việc quyết định miễn nhiệm đối với công chức phải được từ 50% trở lên tổng số thành viên tập thể lãnh đạo, thường vụ cấp ủy cùng cấp đồng ý; trường hợp đạt tỷ lệ dưới 50% thì báo cáo cơ quan quản lý xem xét, quyết định.
Sau khi công chức lãnh đạo, quản lý bị miễn nhiệm, cấp có thẩm quyền xem xét bố trí công tác phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; công chức có trách nhiệm chấp hành quyết định phân công của cấp có thẩm quyền.
Trường hợp công chức lãnh đạo, quản lý bị miễn nhiệm do xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ trong 2 năm liên tiếp thì cấp có thẩm quyền cho thôi việc theo quy định của pháp luật. Quyết định miễn nhiệm đồng thời là quyết định cho thôi việc.
Về nội dung này, Bộ Nội vụ cho biết, Bộ Tư pháp đề nghị làm rõ lý do hoặc điều chỉnh, bổ sung để đảm bảo thống nhất về việc bỏ phiếu trong quy trình xem xét miễn nhiệm.
Giải trình, Bộ Nội vụ cho rằng, Khoản 2 Điều 3 Quy định số 80 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử quy định trong quản lý cán bộ phải bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định. Đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ đối với những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phải do cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo có thẩm quyền thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số.
Việc miễn nhiệm chức vụ đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cá nhân, cần được quyết định thận trọng, kỹ lưỡng, đúng nguyên tắc. Do đó, quy định về bỏ phiếu trong quy trình xem xét miễn nhiệm là cần thiết và phù hợp với quy định của Đảng.
Từ chức do hạn chế về năng lực được bảo lưu phụ cấp chức vụ trong 6 tháng
Liên quan đến chế độ, chính sách đối với công chức lãnh đạo, quản lý từ chức, miễn nhiệm (Điều , Nghị định 1), Bộ Nội vụ cho biết sẽ sửa theo hướng, với công chức lãnh đạo, quản lý từ chức do hạn chế về năng lực hoặc không còn đủ sức khỏe, uy tín để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách xảy ra sai phạm nghiêm trọng; có trên 50% nhưng không quá 2/3 số phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ lấy phiếu theo quy định thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ lãnh đạo hiện hưởng trong thời gian 6 tháng kể từ ngày có quyết định cho từ chức.
Trường hợp tự nguyện thôi giữ chức vụ; người đứng đầu lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực thì tùy tính chất, mức độ sai phạm, cấp có thẩm quyền xem xét cho từ chức và được cấp có thẩm quyền cho từ chức thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ lãnh đạo hiện hưởng đến hết thời hạn giữ chức vụ.
Công chức lãnh đạo, quản lý bị miễn nhiệm không được hưởng phụ cấp chức vụ kể từ ngày có quyết định miễn nhiệm. Sau khi từ chức, miễn nhiệm, nếu công chức tự nguyện xin nghỉ hưu, thôi việc thì được giải quyết theo quy định hiện hành.
Công chức lãnh đạo, quản lý sau khi từ chức, miễn nhiệm có nguyện vọng tiếp tục công tác thì được cấp có thẩm quyền xem xét, bố trí làm công tác chuyên môn (không làm công tác lãnh đạo, quản lý), được giữ nguyên ngạch công chức đã được bổ nhiệm hoặc được bổ nhiệm vào ngạch khác phù hợp với vị trí việc làm.
Công chức sau khi bị kỷ luật tự nguyện xin từ chức mà có thời gian công tác còn 5 năm trở lên thì được cấp có thẩm quyền căn cứ tình hình thực tế tại cơ quan, đơn vị, địa phương xem xét từng trường hợp cụ thể để bố trí công tác theo hướng giảm một cấp so với chức vụ trước khi bị kỷ luật.
Sau thời hạn theo quy định của cơ quan có thẩm quyền, nếu khắc phục tốt những sai phạm, khuyết điểm, được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện thì được cấp có thẩm quyền xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy định của Đảng và pháp luật.
Trước đề nghị của Bộ Tài chính về việc cân nhắc quy định trường hợp công chức lãnh đạo để xảy ra sai phạm nghiêm trọng đến mức phải từ chức được hưởng chế độ bảo lưu phụ cấp 6 tháng, Bộ Nội vụ cho biết, quy định công chức lãnh đạo, quản lý để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách xảy ra sai phạm nghiêm họng tự nguyện từ chức và được cấp có thẩm quyền chấp thuận được hưởng chế độ bảo lưu phụ cấp 6 tháng là quy định kế thừa quy định hiện hành, thực tế không phát sinh khó khăn, vướng mắc. Do đó, Bộ này đề nghị giữ như dự thảo nghị định.