Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, hiện nay cả nước có 429 đập thủy điện và các công trình thủy điện ở các quy mô khác nhau với dung tích trữ nước khoảng 56 tỷ mét khối, chiếm 37% công suất phát hiện nay. Đây là một nguồn năng lượng rất quan trọng phục vụ cho nhu cầu về năng lượng của đất nước trong phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu đời sống của nhân dân.
Cũng theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, hiện nay chúng ta đang phụ thuộc rất nhiều năng lượng nhập khẩu; năng lượng sơ cấp của chúng ta đã gần hết; trong khi đó thủy điện là một nguồn năng lượng tái tạo rất quan trọng, có mức độ ô nhiễm ít và độ phát thải gần như không có.
“Chính vì vậy, việc quản lý và khai thác được nguồn năng lượng tái tạo này như thế nào để đảm bảo giảm thiểu những tác động đến môi trường và phát huy tối đa hiệu quả của nó là một nhiệm vụ rất quan trọng của đất nước. Thủy điện có cả những mặt tích cực và có cả những mặt hạn chế, tùy thuộc vào trong quản lý và các chính sách để xử lý các vấn đề liên quan”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.
Người đứng đầu Bộ Công Thương cũng cho biết, ngoài chức năng phát điện thì các hồ chứa nước của các đập thủy điện còn có tác dụng để tích nước và tùy thuộc vào công suất có thể cắt giảm lũ và điều tiết lũ.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng không phủ nhận những tác động tiêu cực của thủy điện, đặc biệt là những tác động đến môi trường đất, nước và khí hậu cũng như đời sống của dân sinh. Trước kia, có câu chuyện dự án thủy điện chiếm đất rừng tự nhiên và gây ra những ảnh hưởng đến rừng đầu nguồn, chức năng của rừng trong phòng, chống mưa lũ...
“Vì vậy, từ lâu thủy điện đã được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội, của Chính phủ trong hàng loạt các cuộc giám sát cũng như các yêu cầu cụ thể, đặc biệt là từ sau Nghị quyết 62 của Quốc hội ban hành vào cuối năm 2013 và sau đó ra Nghị quyết 11 của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết số 12 của Quốc hội. Công tác về phát triển thủy điện nói chung cũng như quản lý về an toàn của đập, hồ thủy điện và sự vận hành của các công trình thủy điện đã được đảm bảo”. Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.
Từ năm 2016, Bộ Công thương đã phối hợp với các bộ, ngành tuyệt đối không bổ sung bất kỳ một dự án thủy điện nào cho dù là nhỏ hay lớn nếu có sử dụng đến các diện tích đất rừng. Theo quy định, thủy điện không được chiếm dụng đất vượt quá 10ha cho 1 MW. Nhưng trên thực tế, vừa qua, các dự án chỉ chiếm dụng 1,9 ha đất các loại cho 1 MW. Cùng với đó, Bộ Công Thương đã đưa ra khỏi quy hoạch 479 dự án thủy điện các loại, 8 dự án thủy điện bậc thang các lưu vực sông và bên cạnh đó là 213 điểm tiềm năng cho phát triển thủy điện cũng được đưa ra khỏi quy hoạch thủy điện theo yêu cầu của Quốc hội.
Liên quan đến vận hành của các đập thủy điện và an toàn hồ, đập, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, hiện có hàng loạt các công cụ pháp lý như Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ tài nguyên nước cũng như Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Điện lực và Luật Phòng, chống thiên tai để điều chỉnh các hoạt động của thủy điện.
Về vấn đề các đại biểu đề cập đến cần phải đánh giá lại về hiệu quả và cũng như là những nguy cơ đặt ra cho việc thủy điện xả lũ, gây thiệt hại cho nhân dân cũng như các yếu tố khác tác động môi trường, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng thừa nhận có những câu chuyện về thủy điện ở địa phương.
Ví dụ như tại thủy điện Hố Hô năm 2016 đã để xảy ra xả lũ vượt quá mức, các cơ quan chức năng đã xử lý rất kiên quyết và thu giấy phép hoạt động của dự án này và có những hình phạt, yêu cầu khắc phục rồi mới tiếp tục cho phép tham gia thị trường điện.
“Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một nội dung mà dư luận đang rất quan tâm. Đó là thủy điện ảnh hưởng như thế nào đến lũ lụt cũng như là những nguy cơ sạt lở đất? Chúng tôi được tham gia cùng đoàn công tác của Thủ tướng Chính phủ hai lần đi thăm, làm việc tại Quảng Bình và Quảng Nam, Quảng Ngãi. Qua khảo sát thực tế, nghe báo cáo của các địa phương và đánh giá của các nhà chuyên môn, cơ quan chức năng thì việc sạt lở đất, lũ lụt vừa qua gắn chặt với yếu tố trực tiếp là tính dị thường, cực đoan của thời tiết. Tuy nhiên, chúng ta cũng không phủ nhận tác động của các dự án thủy điện cũng như các dự án khác”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.
Theo người đứng đầu Bộ Công Thương, vấn đề bão, lũ thiên tai cần có nghiên cứu khoa học và đưa ra những cảnh báo cụ thể hơn nữa, đặc biệt là bản đồ vùng sụt lún cũng như nguy cơ biến đổi khí hậu.
“Để tăng cường quản lý nhà nước, đảm bảo kinh tế xã hội trong phòng, chống thiên tai, Bộ Công Thương sẽ làm việc với các địa phương và các bộ, ngành để nghiên cứu cụ thể, đánh giá về những mặt hạn chế, những mặt tích cực để từ đó có căn cứ chính xác báo cáo Chính phủ tiếp tục siết chặt quản lý, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực nếu có và đồng thời tiếp tục khai thác tốt nguồn tài nguyên từ thủy điện”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
Tranh luận tại hội trường, đại biểu Lưu Bình Nhưỡng (Bến Tre) cho biết, ông đồng tình với ý kiến thủy điện đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và thủy điện có tính 2 mặt. "Lấy thước đo nào để thấy mặt tốt là ưu việt và mặt xấu là tạm thời, còn hậu quả nhãn tiền đầy xót xa như vừa qua thì ai cũng thấy?", đại biểu Lưu Bình Nhưỡng phát biểu.
Đại biểu Lưu Bình Nhưỡng thống nhất quan điểm không đánh đổi môi trường lấy sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng có kế hoạch đóng cửa rừng thì cần kiểm điểm đánh giá lại phương châm này. "Tôi không chống làm thủy điện nhưng làm sao để đất nước không thấy xót xa", đại biểu Lưu Bình Nhưỡng nhấn mạnh.
Đại biểu Dương Trung Quốc (Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai) bày tỏ băn khoăn: Nước ta có hàng trăm thủy điện nhỏ và vừa, vị trí chủ yếu trong rừng sâu, sau vài chục năm hết hiệu quả kinh tế thì những thủy điện này có thành những "quả bom nổ chậm" trong rừng sâu hay không? Vấn đề môi trường như thế nào?
"Tôi nghĩ bây giờ chúng ta phải nghĩ đến câu chuyện 50 năm nữa rồi, nếu không, chúng ta sẽ để lại di sản đầy nguy hại và rủi ro", đại biểu Dương Trung Quốc cho hay.