Bà Nguyễn Thúy Anh, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cho biết: Về hành vi bạo lực gia đình (Điều 3), một số ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đề nghị khoản 1 quy định khái quát thành các nhóm hành vi bạo lực gia đình. Một số ý kiến góp ý về nội dung của một số điểm quy định về hành vi bạo lực gia đình và cũng có ý kiến đề nghị bổ sung hành vi “gián tiếp” gây ra bạo lực gia đình.
Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban Xã hội nhận thấy hầu hết các hành vi bạo lực gia đình đều được thể hiện dưới dạng cụ thể của bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục hoặc bạo lực kinh tế.
Tuy nhiên, có hành vi bạo lực tác động đến người bị bạo lực gia đình có thể đan xen lẫn nhau, do vậy, nếu quy định khái quát thành 4 nhóm hành vi bạo lực gia đình thì có thể trùng lắp các hành vi bạo lực gia đình. Quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tuyên truyền, giáo dục, thực thi pháp luật.
Đây cũng là cách tiếp cận được các tổ chức quốc tế khuyến nghị và được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Do vậy, Thường trực Ủy ban Xã hội dự kiến tiếp tục quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình và rà soát, tiếp thu, chỉnh lý các điểm quy định về hành vi bạo lực gia đình tại khoản 1 Điều này trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội. Có ý kiến ĐBQH đề nghị bỏ khoản 2; một số ý kiến ĐBQH nhất trí với quy định tại khoản 2.
Có ý kiến đề nghị bỏ đối tượng áp dụng là người đã ly hôn, người chung sống với nhau như vợ chồng do không khả thi và mâu thuẫn với Luật Hôn nhân và gia đình.
Thường trực Ủy ban Xã hội thấy rằng trong thực tế có nhiều trường hợp nam, nữ không, chưa kết hôn nhưng vẫn sống với nhau như vợ chồng, hoặc có trường hợp vợ chồng tuy đã ly hôn, mối quan hệ giữa họ không còn là quan hệ gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình, song là mối quan hệ rất đặc thù, dễ nảy sinh các tương tác, tiếp xúc trong cuộc sống, từ đó gia tăng nguy cơ xảy ra hành vi bạo lực.
Xuất phát từ nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình lấy người bị bạo lực gia đình là trung tâm, thì mọi hành vi bạo lực xuất phát từ mối quan hệ gia đình giữa những đối tượng này và giữa những đối tượng này với người thân của hai bên cũng cần thiết phải áp dụng quy định của Luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bạo lực gia đình; xử lý nghiêm người có hành vi bạo lực gia đình, ngăn ngừa các hành vi bạo lực trong tương lai và đồng thời những người trong cuộc sẽ được áp dụng các quy định đặc thù trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình để mối quan hệ trở nên tốt hơn. Do vậy, Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị cho giữ quy định khoản 2 Điều 3 của dự thảo Luật.
So với Luật hiện hành, dự thảo Luật do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 đã thu hẹp nhóm đối tượng, chỉ áp dụng đối với “người đã ly hôn” và “người chung sống với nhau như vợ chồng”. Trong khi trên thực tế xảy ra nhiều vụ việc bạo lực gia đình liên quan đến thành viên gia đình của người đã ly hôn hoặc người chung sống với nhau như vợ chồng cần áp dụng quy định của Luật này.
Do vậy, để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và bảo đảm tính khả thi, trên cơ sở nghiên cứu và tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Xã hội đề xuất chỉnh lý khoản 2 Điều 3 như trong dự thảo Luật.
Bà Nguyễn Thúy Anh cho biết, ngoài các nội dung nêu trên, Báo cáo số 1013 đã đề cập đến một số nội dung lớn khác về tư vấn, hòa giải về phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý tin báo, tố giác vụ việc bạo lực gia đình (các điều 16, 17, 20), biện pháp góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cử (Điều 32), bảo vệ, hỗ trơ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và người báo tin, tố giác vụ việc bạo lực gia đình (Điều 34), xã hội hóa công tác phòng, chống bạo lực gia đình và các các nội dung tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật tại các điều về giải thích từ ngữ (Điều 3), những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 4), chính sách của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 6), về biện pháp yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an cấp xã nơi xảy ra vụ việc bạo lực gia đình (Điều 24).
Đồng thời, trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, Thường trực Ủy ban Xã hội đã rà soát, tiếp thu, giải trình và chỉnh lý các nội dung về nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 4); Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 7); quyền và trách nhiệm của những đối tượng có liên quan (Điều 9, 10, 11, 12), thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 14 đến Điều 16), cung cấp âm thanh, hình ảnh để xác định vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 21), giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình (Điều 31), địa chỉ tin cậy ở cộng đồng (Điều 37), trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình (Điều 47), trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ (Điều 49), trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (Điều 53)…
Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự chủ động giữa Uỷ ban Xã hội và Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch hoàn thiện hồ sơ, đủ điều kiện trình tài kỳ họp thứ 4.
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan tiếp thu đầy đủ khi tiến hành luật phải rà soát đạt mục tiêu bám sát mục tiêu ban đầu khi tiến hành sửa luật, luật ban hành phải khả thi, đảm bảo sự tương thích thống nhất giữa các chương điều trong hệ thống pháp luật.
Về biện pháp bổ sung cấm tiếp xúc theo quyết định của UBND cấp xã, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị lấy ý kiến ĐBQH tại hội nghị ĐBQH chuyên trách, cũng như đánh giá tác động tính tương thích với các điều luật khác đảm bảo tính khả thi. Bên cạnh đó, Cơ quan chủ trì cùng cơ quan soạn thảo cần phối hợp để làm rõ hành vi bạo lực gia đình, đảm bảo quyền công dân nhưng tránh bỏ sót hành vi. Uỷ ban xã hội cùng với cơ quan soạn thảo tiếp tục tiếp thu các ý kiến, chỉnh lý dự thảo luật để đảm bảo chất lượng trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 4.