Tôi nhớ, ngày hôm ấy không có máy bay Mỹ đến vùng trời Hà Nội, Hà Tây. Sau cơn mưa, trời quang đãng, tối đến tràn ngập một không khí thanh bình. Thầy trò chúng tôi kéo nhau lên đê hóng mát, nói chuyện. Được một hồi lâu, lại quay về câu chuyện hai tấm ảnh: Bác Hồ trao Huân chương sao vàng cho Bác Tôn, và Bác Hồ chúc mừng Vợ chồng Bác Tôn nhận Huân chương Sao vàng (ngày 19/8/1958) của Đinh Thúy.
Lúc chiều thầy Nguyễn Văn Phú giảng: Bức thứ nhất là ảnh nghi thức, phóng viên không được bỏ qua, bức thứ hai là ngoài nghi thức, nhưng rất giá tri, phóng viên phải nhạy cảm mới có được... Vì bức ảnh thứ hai này nói được tình cảm chân thành của Bác Hồ, phong cách chủ động thân ái cuả Bác Hồ đối với vợ chồng Bác Tôn. Đây là một thành công của Đinh Thúy. Để có sự thành công này, Đinh Thúy đã phải đi một chặng đường dài hơn chục năm từ các bức vẽ truyền thần chân dung Bác Hồ ở Sài Gòn đến ngày chính mình cầm máy ảnh trực tiếp chụp Bác tại Hà Nội.
Trăng đã lên cao sáng rời rợi, trăng tháng 6 giữa mùa hè treo lơ lưng trên bầu trời trong veo. Tựa lưng vào đê, thầy Văn Phú kể:
Đinh Thúy và ông (Nguyễn Văn Phú) trong kháng chiến chống Pháp đều là phóng viên ảnh của Sở Thông tin Sài Gòn. Tập kết ra Bắc, hai ông được điều về Việt Nam Thông tấn xã (nay là Thông tấn xã Việt Nam-TTXVN). Khi ở Sài Gòn, những lúc không cầm máy ảnh đi công tác, Đinh Thúy thường ra xưởng, vẽ chân dung Bác Hồ. Các bức chân dung đó được gửi tới một số quận, huyện để các chi bộ, các ủy ban treo lên khán đài làm lễ khánh tiết các hội nghị, các cuộc mit tinh, lễ tuyên thệ của bộ đội trước khi ra trận... Nhiều lần Văn Phú bắt gặp Đinh Thúy bước vào bàn vẽ với tiếng hát nho nhỏ bài "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng" của Phong Nhã. Văn Phú người Bắc rất thích và nhớ mãi giọng Quảng Bình trầm ấm của ông:
"Bác chúng em dáng cao cao người thanh thanh / Bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài...".
Thì ra Đinh Thúy hát để lấy cảm hứng vẽ Bác Hồ cho thật đẹp. Măc dù trong tay ông đã có mấy ảnh mẫu về Bác Hồ. (Đấy là chuyện đầu những năm 1950, cách buổi chuyện trò của chúng tôi chừng 14- 15 năm.)
Câu chuyện ấy tưởng chừng trôi qua, không ngờ 30 năm sau nó lại trở về đầy xúc động.
Năm 1997, khi biên soạn cuốn sách "Sống mãi những tấm ảnh để lại", nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thươngbinh, liệt sĩ (1947-1997), tôi có dịp tiếp cận với gia đình liệt sĩ Bùi Đình Túy ở khu tập thể TTXVN ở khu Mai Hương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Thì ra, đến ngày ấy cũng tròn 30 năm nhà nhiếp ảnh Đinh Thúy từ giã gia đình và chúng tôi. Anh Bùi Đình Toái, con trai bác Túy trao cho tôi cuốn album, nó giống như tập ma-két ảnh nhỏ bằng quyển vở học sinh, ảnh dán lên các trang giấy giang màu cánh gián thô ráp. Trong đó có khoảng 50 ảnh cỡ 4x6 cm, dưới mỗi ảnh đều có ghi chú ngắn gọn. Nét chữ rắn rỏi của Đinh Thúy còn tươi màu mực. Mở đầu là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do Đinh Thúy vẽ, và bức ảnh Đinh Thúy đang vẽ chân dung Bác Hồ. Tôi mừng quá, câu chuyện thầy Văn Phú kể trong đêm trăng ở bờ đê xã Cấn Hữu năm nào lại trở về với tôi, đặc biệt nó trở về từ tay người con trai nhà nhiếp ảnh Đinh Thúy. Anh Toái lật từng trang ảnh, chậm rãi giới thiệu.
Anh Bùi Đình Toái kể:
Trước khi đi B, cha tôi giao lại cho mẹ tôi tập ảnh này. Mẹ tôi để trong rương đựng quần áo và đồ tư trang của bà, khi đi sơ tán cũng phải mang theo. Ngày nhận tin cha tôi hy sinh, tôi mở ra xem, thì mới biết đây là những ảnh ông chụp trong thời kỳ chống Pháp. Hầu như những tấm ảnh đó chưa xuất hiện trên mặt báo.
Quê tôi ở xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cha tôi sinh năm 1914. Đến năm 1935, lúc ông 21 tuổi, ra Bắc học ở trường Bách nghệ Hà Nội, theo nghề ảnh và hội họa. Năm 1936 ông cùng các bạn học sinh của trường tham gia bãi khóa, để tang cụ Phan Chu Trinh. Vì vậy bị đuổi học. Sau đó ông vào Sài Gòn, làm thợ vẽ cho rạp chiếu phim Indochine. Ở đây, ông lại tham gia các hoạt động Việt Minh yêu nước, và bị bắt cầm tù. Ra tù ông tiếp tục công tác trong Mặt trận Việt Minh đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ông được phân công phụ trách công tác nhiếp ảnh của Sở Thông tin Sài Gòn, làm phóng viên Báo Cảm tử quân Sài Gòn –Chợ lớn. Còn từ ngày tập kết ra Bắc, về VNTTX thì các anh biết, có khi còn rõ hơn tôi.
Cầm cuốn album về, lòng tôi đầy xao xuyến. Tôi biết ngay từ khi thành lập Phân xã Nhiếp ảnh, Đinh Thúy được cấp trên quyết định giao làm Phó chủ nhiệm Phân xã Nhiếp ảnh VNTTX, đặc trách làm phóng viên chính trị, ngoại giao, chụp ảnh các hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Đinh Thúy được nhiều lần tiếp cận với Bác Hồ, từng chụp ảnh Bác thăm Ấn Độ, và một số nước anh em. Ông là người có tính chuyên nghiệp sâu và có tâm hồn nghệ sĩ đam mê nghệ thuật, nên năm 1961, cơ quan đã cử ông sang Cộng hòa Dân chủ Đức tham quan và học tập qui trình làm ảnh màu để về nước xây dựng phòng sản xuất ảnh màu của VNTTX. Và chính ông là người đầu tiên chụp ảnh Bác Hồ bằng phim màu Orwo của Cộng hòa Dân chủ Đức.
Trở lại cái đêm trăng sáng trên đê Cấn Hữu, chúng tôi vẫn nhớ thầy Văn Phú kể:
Khi chụp được bức ảnh Bác Hồ chúc mừng Bác Tôn nhận Huân chương Sao vàng, Đinh Thúy không dấu nổi niềm vui sướng, ông vỗ vai Văn Phú, chia sẻ với người đồng nghiệp lâu năm của mình từng có ảnh đẹp về Bác Hồ:
- Phú ơi, thật may mắn, giờ mới thực sự ghi được thần thái Bác, phong cách Bác, con người Bác...
Lúc ấy thầy Văn Phú hào hứng nói:
Các cậu phải biết rằng, ảnh đẹp rất gây ấn tượng. Bây giờ mình không có ảnh trong tay, nhưng vẫn hình dung ra ba khuôn mặt phúc hậu, ba dáng vẻ vui sướng khác nhau của ba người: Bác Hồ cười rạng rỡ, hai tay dang rộng ôm lấy lưng hai bác Tôn. Bác Tôn cười hồn nhiên, vỗ tay đáp lại sự chào mừng nồng nhiêt của quan khách. Còn bác Tôn gái hai tay nắm vào nhau dáng khiêm nhường với nụ cười thầm kín, nét mặt ấy, nụ cười ấy rất đặc trưng cho các má miền Nam. Không dễ có được kiểu ảnh như vậy đâu. Chỉ có tác phong thân ái của Bác Hồ mới tạo ra cái không khí đầm ấm như vậy. Và cũng chỉ có những nhà nhiếp ảnh giàu cảm xúc, nhanh nhẹn như Đinh Thúy, mới chụp được những bức ảnh như vậy.
Nếu tính từ ngày bức ảnh ra đời đến nay là 63 năm, một khoảng thời gian khá dài, nhưng nhìn vào ảnh, chúng ta thấy rất gần gũi, không xa. Bác Hồ và vợ chồng Bác Tôn vẫn như đang giao lưu với chúng ta, còn nguyên đó niềm vui, niềm hân hạnh được Tổ quốc vinh danh. Còn nguyên đó nụ cười của những người làm nên Cách mạng tháng Tám, và Quốc khánh 2/9/1945. Nụ cười ấy, không khí ấy cứ tỏa sáng với mọi thế hệ Việt Nam, không chỉ đến hôm nay, mà còn mãi mãi với mọi thế hệ mai sau.