Bởi, nếu tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào chính sách tiền tệ, phần tín dụng mở rộng quá sẽ tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống các tổ chức tín dụng.
Hiện quy mô dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đạt trên 120 % GDP - cao trong số các nước mà Ngân hàng Thế giới (WB) đã cảnh báo nên nếu Việt Nam tiếp tục dựa vào chính sách tiền tệ để tăng trưởng kinh tế sẽ tiềm ẩn rủi ro.
Chính vì vậy, các cơ quan chức năng đã chỉ đạo rất quyết liệt, tổ chức rất nhiều cuộc họp đánh giá về thị trường tài chính để tìm giải pháp thúc đẩy các phân khúc khác như thị trường trái phiếu doanh nghiệp để giải quyết được vốn dài hạn cho doanh nghiệp và người dân.
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, tính chất hoạt động của hệ thống ngân hàng là cung ứng nguồn vốn ngắn hạn, chủ yếu là nguồn vốn lưu động cho doanh nghiệp và người dân. Nếu giải quyết được nhu cầu vốn dài hạn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán thì sẽ giảm bớt áp lực, rủi ro với hệ thống các tổ chức tín dụng.
Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước định hướng mức tăng trưởng tín dụng khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Ngân hàng Nhà nước đã giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các tổ chức tín dụng và thông báo công khai (ngày 31/12/2023) nguyên tắc xác định để tổ chức tín dụng chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng.
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn còn thấp, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng cho các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo về hoạt động tiền tệ, tín dụng, các quy định về cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ. Đồng thời, tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh, đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Nhờ đó, mặt bằng lãi suất trong 10 tháng năm 2024 giảm 0,76%/năm so với cuối năm 2023. Mặc dù thị trường tài chính thế giới có nhiều biến động nhưng tỷ giá USD/VND cơ bản diễn biến linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường, thị trường ngoại tệ duy trì ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết: Việc thực hiện chủ trương tiếp tục giảm lãi suất trong thời gian tới là rất khó khăn. Bởi, lãi suất cho vay đã có xu hướng giảm sâu thời gian qua (năm 2023 giảm hơn 2,5%/năm và tính đến 20/10/2024 tiếp tục giảm 0,76%/năm so với cuối năm 2023). Nhu cầu vốn tín dụng đang có xu hướng tiếp tục tăng, thời gian tới sẽ áp lực đối với mặt bằng lãi suất. Sức ép tỷ giá từ thị trường quốc tế khiến việc giảm lãi suất VND trong nước càng gia tăng áp lực lên tỷ giá và thị trường ngoại tệ trong nước.
Sức ép cung ứng vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế vẫn còn lớn, kể cả vốn trung dài hạn trong bối cảnh huy động vốn từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán gặp nhiều khó khăn. Điều này tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản lớn đối với hệ thống ngân hàng (huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn).
Cùng với đó, sức hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân còn thấp. Sau khi chịu tác động bởi đại dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng sản xuất do thiếu đơn hàng, giải thể, đóng cửa, sức khỏe tài chính bị giảm sút. Xu hướng thắt chặt, cắt giảm chi tiêu của người dân dẫn đến cầu tín dụng thấp. Một số nhóm khách hàng có nhu cầu tín dụng nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn hoặc giải ngân vốn vay do vướng mắc về thủ tục pháp lý của dự án, năng lực tài chính suy giảm, mất cân đối dòng tiền, thiếu phương án sản xuất kinh doanh khả thi…
Với những khó khăn thách thức này, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, AMRO đều nhận định: Dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện rất hạn hẹp và khuyến nghị Việt Nam cần tận dụng dư địa tài khóa còn nhiều để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục bám sát diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước để điều hành chính sách tiền tệ kịp thời, hiệu quả. Cùng đó, phối hợp đồng bộ, hài hoà, chặt chẽ với chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Từ đó, góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cũng điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng. Đồng thời, điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.