Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh yêu cầu này khi dẫn đầu Đoàn công tác Nhóm 3 của Ban Chỉ đạo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sáng 13/10.
Tại cuộc làm việc trên, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị Ban Cán sự Đảng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục phân tích thực tiễn, rút ra những vấn đề lý luận theo tư tưởng, quan điểm, mục tiêu của Đảng về mô hình phát triển, thể chế chính trị, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn phát triển. Từ đó xác định những vấn đề ưu tiên giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội trong giai đoạn sắp tới.
Theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, cần quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng là chính sách xã hội thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ, góp phần quan trọng trong bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội, an sinh xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thụ hưởng ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.
“Cần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, rút ra bài học kinh nghiệm trong khắc phục, điều tiết mặt trái của kinh tế thị trường bằng các công cụ, chính sách xã hội rõ ràng, cụ thể”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy, sau gần 40 năm đổi mới, các chính sách xã hội không ngừng được hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng, mức hỗ trợ và mở rộng diện bao phủ theo hướng công bằng, tiến bộ, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, cơ bản bảo đảm an sinh của người dân theo quy định của Hiến pháp. Đảng đã có những bước thay đổi căn bản về nhận thức đối với vấn đề xã hội và chính sách xã hội. Đó là kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội. Chính sách xã hội từng bước chuyển từ bảo đảm an sinh cho đối tượng khó khăn, yếu thế sang thực hiện phúc lợi xã hội để mở rộng đối tượng được thụ hưởng thành quả chung của xã hội...
Tuy nhiên, kết quả thực hiện chính sách xã hội vẫn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém và nhìn chung, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững.
Theo Bộ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, trong những hạn chế này, nổi lên là thị trường lao động chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và việc làm thấp. Tỷ lệ bao phủ của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp còn thấp. Độ bao phủ của chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên còn hẹp, mức chuẩn trợ cấp thấp. Chất lượng dịch vụ xã hội chưa đáp ứng được các yêu cầu về đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hóa; chưa quản lý theo trường hợp và chăm sóc, trợ giúp đối tượng tại gia đình, cộng đồng.
Kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, chênh lệch giàu nghèo còn lớn. Bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng, nhất là về cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Chính sách xã hội thiếu tính bao trùm, liên kết trong hỗ trợ đối tượng và chưa bao phủ hết đối tượng, chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện…, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết.
Đề cập nhiều thách thức đặt ra cho công tác chính sách xã hội tới đây, Thứ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Văn Hồi nhấn mạnh, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, đô thị hóa, chiến lược tăng trưởng xanh... sẽ có tác động tích cực trong dài hạn. Song trong ngắn hạn sẽ có bất lợi, ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, đặc biệt là người nghèo và lao động kỹ năng thấp, chưa qua đào tạo..., dẫn đến yêu cầu đầu tư để tái phân bố lao động và các giải pháp an sinh xã hội cho những người bị tác động. Tình hình này cũng đặt ra không ít vấn đề xã hội khác như tình trạng thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, rủi ro và xung đột lao động, xung đột xã hội…
Tốc độ già hóa dân số nhanh cũng gây áp lực lên hệ thống an sinh xã hội, hệ thống chăm sóc xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế do suy giảm lực lượng và năng suất lao động, áp lực giải quyết việc làm thỏa đáng cho người cao tuổi có nhu cầu đang tăng nhanh. Do đó, cần có chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, theo hướng đa tầng, bao trùm, hiệu quả để bảo đảm quyền an sinh cho người dân.