Sự hợp tác giữa Việt Nam và Liên hợp quốc là một ví dụ điển hình về hợp tác phát triển giữa các nước thành viên Liên hợp quốc cũng như về vai trò của Liên hợp quốc trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo.
Nguồn hỗ trợ đáng kể
Khi Việt Nam vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và từng bước khôi phục sản xuất, Liên hợp quốc đã tích cực giúp Việt Nam giải quyết những khó khăn nhiều mặt. Các tổ chức tài trợ chính bao gồm: Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình Lương thực thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Cao Ủy Liên hợp quốc về Người tị nạn (UNHCR) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã hỗ trợ đáng kể cho đầu tư của Chính phủ Việt Nam về các hạng mục phát triển xã hội, tập trung trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Việc hợp tác với Liên hợp quốc đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ công nghệ và thúc đẩy tiến bộ về khoa học-kỹ thuật ở Việt Nam, phục hồi và xây dựng mới một số cơ sở sản xuất, tăng cường năng lực phát triển. Đồng thời, trong bối cảnh Việt Nam bị bao vây cấm vận thì sự hợp tác với Liên hợp quốc tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận được nguồn viện trợ của nhiều nước phương Tây.
Cho tới cuối những năm 1980, viện trợ không hoàn lại của Liên hợp quốc dành cho Việt Nam đạt trên 630 triệu USD. Một số tổ chức đã nâng mức hỗ trợ như Quỹ Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO). Một số tổ chức khác cũng bắt đầu có hoạt động viện trợ trực tiếp như Chương trình kiểm soát Ma túy Liên hợp quốc (UNDCP), Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và thêm nhiều nước cũng như các tổ chức tài chính tiền tệ như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tham gia các loại hình dự án hỗn hợp đa-song phương.
Các dự án hợp tác là nguồn hỗ trợ đáng kể cho Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách phát triển, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan và trình độ cán bộ trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới; đồng thời Liên hợp quốc tiếp tục có những đóng góp có giá trị đối với việc nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, phát triển nguồn nhân lực khoa học-kỹ thuật và giải quyết các vấn đề xã hội khác của Việt Nam.
Hơn 30 năm qua, sự viện trợ của Liên hợp quốc dành cho Việt Nam đã có ý nghĩa hết sức to lớn, tập trung hỗ trợ nhiều lĩnh vực thiết yếu về phát triển kinh tế, xây dựng thể chế, pháp luật, giải quyết nhiều vấn đề xã hội cấp bách. Sự hợp tác này đã đạt được những kết quả tốt và có tác dụng tích cực, đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam về phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn.
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung khẳng định, Việt Nam luôn đánh giá cao sự hỗ trợ quý báu của các tổ chức phát triển Liên hợp quốc từ những năm khó khăn tái thiết đất nước sau chiến tranh, bị bao vây, cấm vận, cũng như trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sau này. Nguồn vốn, tri thức, kinh nghiệm từ hệ thống phát triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam đã đóng góp tích cực vào những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, hỗ trợ nâng cao năng lực thể chế, xây dựng khuôn khổ pháp luật, thúc đẩy khoa học kỹ thuật, hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam tham gia đầy đủ, thực chất các hoạt động của Liên hợp quốc
Bên cạnh đó, Liên hợp quốc trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của chính sách đối ngoại. Theo đó, thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã tranh thủ diễn đàn Liên hợp quốc làm cơ sở để tăng cường quan hệ với các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc, mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước, tổ chức quốc tế. Việt Nam tích cực thương lượng, trở thành thành viên chính thức của Công ước cấm vũ khí hóa học (CWC) năm 1998, tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT) năm 1996, tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị giải trừ quân bị (CD) năm 1996.
Ngoài ra, Việt Nam sớm tham gia vào quá trình chuẩn bị cho các hội nghị lớn như Hội nghị về chống buôn bán bất hợp pháp vũ khí nhỏ năm 2001, 2003... Việt Nam cũng tham gia đầy đủ và thực chất vào các cơ chế hoạch định chính sách của Liên hợp quốc, như việc giữ chức Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1997, tham gia Hội đồng kinh tế, xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) (1998-2000).
Việt Nam không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ thu hút viện trợ của các tổ chức phát triển Liên hợp quốc mà còn chủ động xây dựng các hình thức hợp tác và tham gia các tổ chức này. Mô hình hợp tác ba bên (ban đầu là giữa Việt Nam-FAO-Senegal về trồng lúa) đã được mở rộng và áp dụng rộng rãi, được coi là hình mẫu cho hợp tác Nam - Nam. Việt Nam cũng chủ động tham gia sâu hơn hệ thống Liên hợp quốc thông qua việc là thành viên Hội đồng Chấp hành UNDP/UNFPA (nhiệm kỳ 2000 - 2002), ECOSOC (1998 - 2000)… Trong giai đoạn này, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các tổ chức phát triển Liên hợp quốc thực hiện thí điểm sáng kiến “Một Liên hợp quốc”, được cộng đồng các nhà tài trợ đánh giá cao.
Đặc biệt, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia cơ quan quan trọng nhất của Liên hợp quốc về hòa bình, an ninh quốc tế trong bối cảnh Hội đồng Bảo an phải xử lý khối lượng công việc đồ sộ do xuất hiện nhiều vấn đề an ninh phức tạp, thêm vào đó là những thách thức an ninh toàn cầu mới và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu trầm trọng nhất lịch sử thế giới hiện đại.
Trong hai năm 2020-2021, Việt Nam sẽ đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Điều này phản ánh vị thế mới của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới toàn diện, thể hiện sự tín nhiệm cao, chủ động và tích cực đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế. Việt Nam đã cử 33 sĩ quan tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và tháng 10/2018 đã triển khai thành công Bệnh viện dã chiến cấp 2 tham gia Phái bộ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan.
Theo Kế hoạch Chiến lược chung 2017-2021 giữa Việt Nam và Liên hợp quốc trong khuôn khổ Sáng kiến Một Liên hợp quốc đã được ký tháng 7/2017, Liên hợp quốc tập trung vào mục tiêu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2020 và các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Chương trình có giá trị hơn 423 triệu USD bao gồm bốn lĩnh vực ưu tiên: đầu tư vào con người; đảm bảo thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển môi trường bền vững; thúc đẩy sự thịnh vượng và quan hệ đối tác; tăng cường công lý, hòa bình và quản trị toàn diện.
Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam Kamal Malhotra cho biết, Liên hợp quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ và sát cánh cùng Việt Nam để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển. Đặc biệt, Liên hợp quốc sẽ hỗ trợ Việt Nam về các chính sách phát triển như năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế để tránh bẫy thu nhập trung bình, cùng nhau mang lại nguồn lực tài chính với cách tiếp cận tích hợp để có nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Ngày nay, khi Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, việc đẩy mạnh mối quan hệ với Liên hợp quốc và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc sử dụng nguồn hỗ trợ của Liên hợp quốc nhằm phục vụ trực tiếp cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội là rất cần thiết.