Sáng 16/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thảo luận về dự án Luật Hòa giải cơ sở.
Báo cáo khái quát về dự án luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết, những năm qua, hoạt động hòa giải ở cơ sở đã phát huy vai trò và ý nghĩa quan trọng trong đời sống của nhân dân, tăng cường tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, ngăn ngừa kịp thời nhiều hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, ổn định trật tự, an toàn xã hội, đồng thời giảm bớt các vụ việc phải chuyển đến tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết…
Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được ban hành và đã được các cấp, ngành, người dân thực hiện tích cực. Bên cạnh các ưu điểm, sau 13 năm thi hành, pháp lệnh đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập về hệ thống văn bản quy phạm.
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải cơ sở đối với đời sống xã hội, từ tình hình tổ chức và hoạt động hòa giải trong thời gian qua và thực trạng pháp luật hiện hành về lĩnh vực này cho thấy, việc sớm ban hành Luật Hòa giải cơ sở, một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh thống nhất, có hiệu quả hơn về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết.
Bàn về sự cần thiết ban hành Luật Hòa giải cơ sở, qua thảo luận vẫn còn có ý kiến khác nhau. Một số ý kiến vẫn còn băn khoăn liệu đã thật sự cần thiết ban hành luật hay chưa? Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển cho rằng cần xem xét đầy đủ, xác đáng về sự cần thiết nâng pháp lệnh lên thành luật.
Đại biểu cho rằng trên cơ sở tổng kết 13 năm thi hành pháp lệnh cần cân nhắc ban hành luật mới hay chỉ cần sửa đổi, bổ sung những nội dung chưa phù hợp của pháp lệnh thôi. Cũng quan điểm này, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho rằng hòa giải vốn là hoạt động mang tính chất mềm dẻo không nên “cứng hóa”, “luật hóa”.
Không cùng với quan điểm này, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện đánh giá rất cần thiết ban hành Luật Hòa giải cơ sở. Đại biểu nêu thực tiễn, trên thế giới nhiều nước rất quan tâm tới lĩnh vực hòa giải, qua đó giải quyết được nhiều vấn đề của đời sống xã hội.
Trên cơ sở dẫn chứng về những quy định của pháp luật, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đồng tình với việc cần ban hành Luật Hòa giải cơ sở. Phó Chủ tịch đánh giá qua thực tế tổng kết cho thấy công tác hòa giải cơ sở có vai trò xã hội to lớn góp phần củng cố trật tự xã hội rất tốt. Tuy nhiên Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cũng cho rằng dự án luật thể hiện nặng về vấn đề thủ tục, trình tự hành chính.
Theo Phó Chủ tịch, hòa giải cơ sở là hoạt động mang tính tự nguyện nên những quy định trong dự án luật nên mang tính chất tự nguyện, mềm dẻo, linh hoạt hơn. Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cũng có quan điểm tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Hòa giải cơ sở nhằm tạo cơ sở pháp lý và điều kiện để tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở có hiệu quả hơn, tạo cơ chế để người dân thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ, góp phần ổn định trật tự xã hội, tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư...
Xung quanh phạm vi hòa giải, đa số ý kiến của Thường trực Ủy ban tán thành với Ban soạn thảo quy định phạm vi hòa giải là “các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ ở cơ sở”, được cụ thể hóa tại Điều 4 dự thảo luật. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý còn băn khoăn trong cách thể hiện của dự án luật, theo đại biểu cần phải thể hiện để thấy rõ như thế nào được gọi là “tranh chấp nhỏ”.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển nêu lên những vụ việc không phải là mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ nhưng vẫn rất cần đến công tác hòa giải và qua hòa giải đã giải quyết được vấn đề. Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện đề nghị trong cách thể hiện của dự án luật cần lưu ý trọng tâm của dự án luật là hòa giải những vụ việc nhỏ trong nhân dân nhưng bên cạnh đó cũng có những trường hợp khác nữa, vì vậy quy định của pháp luật phải bao quát được các trường hợp.
Bổ sung biên chế cho Viện Kiểm sát nhân dân
Chiều 16/8, UBTVQH cho ý kiến về việc bổ sung biên chế cho Viện Kiểm sát nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2015 và một số vấn đề về công tác xây dựng ngành.
Các thành viên UBTVQH cơ bản nhất trí với tờ trình của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về việc bổ sung biên chế, số lượng kiểm sát viên, điều tra viên Viện Kiểm sát nhân dân các cấp từ năm 2012 đến hết năm 2013; về đề nghị phê chuẩn việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi tên một số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; về đề nghị tăng số lượng ủy viên và bổ sung một số kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao làm Ủy viên Ủy ban Kiểm sát Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; về trang phục của cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát và giấy chứng minh kiểm sát viên.
Về việc bổ sung biên chế, số lượng kiểm sát viên, điều tra viên Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, tờ trình của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nêu rõ: Nghị quyết số 821/2009/NQ-UBTVQH12 ngày 17/9/2009 của UBTVQH (Nghị quyết số 821) quy định tổng biên chế, số lượng kiểm sát viên, điều tra viên của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đến hết năm 2011 (không tính Viện Kiểm sát quân sự các cấp) là 13.743 biên chế, trong đó có 8.925 kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp và 14 điều tra viên cao cấp. Tính đến ngày 15/6/2012, toàn ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện được 13.349 biên chế, còn thiếu 394 biên chế so với tổng biên chế được duyệt.
Quỳnh Hoa - Phúc Hằng