Đại biểu Bình Thuận Nguyễn Thị Phúc phát biểu. Ảnh: Phương Hoa - TTXVN |
* Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng nêu rõ: Luật nghĩa vụ quân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng được ban hành trong thời gian qua đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển về mọi mặt của đất nước và nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình mới, các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng không còn phù hợp cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.
Cụ thể là: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có nhiều quy định mới liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân, trong đó có quyền, nghĩa vụ của quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng cần phải được cụ thể hóa.
Bên cạnh đó, quân nhân chuyên nghiệp là đối tượng phục vụ tại ngũ theo chế độ tự nguyện, không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật nghĩa vụ quân sự. Công nhân, viên chức quốc phòng là thành phần trong tổ chức biên chế của Quân đội nhân dân, nhưng chưa có văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh, phải vận dụng theo các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan. Do vậy, cần phải có văn bản pháp luật quy định riêng cho các đối tượng này.
Văn bản pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ về vị trí, chức năng của quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng trong tổ chức biên chế của Quân đội nên trong giai đoạn vừa qua việc quản lý, sử dụng hiệu quả chưa cao, lãng phí nguồn nhân lực.
Quy định quân nhân chuyên nghiệp nghỉ hưu ở độ tuổi 50 trở xuống khi tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe và có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ đã ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng Quân đội. Việc quân nhân chuyên nghiệp chỉ phục vụ tại ngũ đến 50 tuổi như quy định hiện hành sẽ không đủ điều kiện để được hưởng mức lương hưu là 75% theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 sẽ ảnh hưởng đến tâm tư nguyện vọng của quân nhân chuyên nghiệp.
Chế độ, chính sách đối với công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng chưa bảo đảm công bằng, mặc dù trong cùng một đơn vị, cùng vị trí việc làm, cùng điều kiện, môi trường làm việc với quân nhân chuyên nghiệp nhưng chế độ, chính sách hưởng khác nhau như phụ cấp thâm niên, bảo hiểm y tế đối với bản thân và thân nhân và các chế độ, chính sách khác. Vì vậy, cần phải đổi mới các chế độ, chính sách đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng phục vụ trong Quân đội nhân dân để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Từ thực tiễn trên, việc xây dựng dự án Luật quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng là cần thiết. Dự thảo Luật gồm có 7 chương, 50 điều.
Thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Quốc phòng - An ninh nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng để phù hợp với Hiến pháp và thẩm quyền của Quốc hội quy định hệ thống hàm, cấp của quân nhân chuyên nghiệp; kịp thời bổ sung các quy định về quyền, nghĩa vụ của quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các quy định của các luật khác, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
* Cần quy định chặt chẽ các vấn đề giám sát chuyên đề Thảo luận các nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, các đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với nhiều nội dung của dự thảo Luật và cho rằng: Dự thảo Luật đã được chỉnh lý đầy đủ, nghiêm túc. Bên cạnh đó, các đại biểu Quốc hội đã góp nhiều ý kiến về các điều, khoản cụ thể.
Về vấn đề chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn, một số đại biểu tán thành với quy định về chất vấn và trình tự, thủ tục trong việc thực hiện hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân như trong dự thảo Luật trình Quốc hội. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị quy định rõ khi trả lời chất vấn bằng văn bản, người trả lời chất vấn phải trả lời trực tiếp.
“Để đảm bảo quy định với Hiến pháp, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện Quốc hội, Hội đồng nhân dân ở nước ta hoạt động theo kỳ họp, căn cứ chương trình kỳ họp, phiên họp, ý kiến, kiến nghị của cử tri, vấn đề xã hội quan tâm và phiếu chất vấn của đại biểu, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định thời gian, nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn. Trong trường hợp chưa đồng tình với việc trả lời chất vấn, đại biểu có thể chất vấn lại vấn đề mình quan tâm tại phiên chất vấn".
"Theo tôi quy định như thế là phù hợp, vẫn bảo đảm được tính khách quan của hoạt động chất vấn, đồng thời phản ánh được ý chí, kiến nghị của cử tri và những vấn đề mà xã hội quan tâm. Tuy nhiên, trong quá trình chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp, nếu không có sự thống nhất chung và vấn đề đặt ra là bức xúc, quan trọng thì yêu cầu thành lập đoàn giám sát để làm rõ vấn đề chất vấn. Vì vậy, tôi đề nghị Quốc hội nên xem xét quy định vấn đề này trong dự thảo Luật” - đại biểu Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận) góp ý.
Đại biểu Huỳnh Nghĩa (thành phố Đà Nẵng) đề nghị, cần quy định rõ tại các Điều 15, Điều 60 của dự thảo Luật theo hướng chức danh bị chất vấn không được ủy quyền cho cấp dưới trả lời chất vấn; đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân chất vấn chức danh nào thì chức danh đó phải trực tiếp trả lời.
“Bởi đại biểu là đại diện cho cử tri, mà cử tri thì luôn mong muốn vấn đề chất vấn được chính chức danh đó trả lời nhằm khắc phục hạn chế, tìm ra những giải pháp tối ưu để quản lý, điều hành đất nước, ngành mình, địa phương mình phát triển tốt hơn”, đại biểu phân tích.
Đồng tình với quan điểm cấp trưởng phải trả lời chất vấn chứ không thể ủy quyền cho cấp phó, đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) cho rằng: Nếu Luật không quy định rõ cấp trưởng phải trả lời chất vấn thì sẽ dẫn đến tình trạng tất cả giao cho cấp phó trả lời chất vấn. Tuy nhiên, vấn đề này không thể quy định cứng nhắc mà nên quy định trong trường hợp nào mới được ủy quyền cho cấp phó trả lời chất vấn như: Vắng mặt đi công tác nước ngoài, bị ốm hoặc không thể tham dự phiên họp thì mới được ủy quyền cho cấp phó trả lời chất vấn.
Góp ý về giám sát chuyên đề của Quốc hội và giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân, một số đại biểu đề nghị bổ sung quy định Quốc hội, Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết về việc thành lập Đoàn giám sát để giám sát chuyên đề phải xác định rõ đối tượng, phạm vi và nội dung giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát; đồng thời, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trước khi báo cáo Quốc hội, Đoàn giám sát báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát của Đoàn.
Vấn đề trên, đại biểu Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận) đồng tình bổ sung quy định bổ sung quy định Quốc hội, Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết về việc thành lập Đoàn giám sát để giám sát chuyên đề và trong đó phải xác định rõ đối tượng, phạm vi và nội dung giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Tuy nhiên, về thời hạn thông báo trước chương trình của đoàn giám sát là 10 ngày trước ngày đoàn làm việc với cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát như trong dự thảo Luật chưa phù hợp; đề nghị nên quy định tùy thuộc vào nội dung giám sát và quy định thời hạn thông báo trước từ 10 đến 15 ngày để đảm bảo sự chủ động cho các đối tượng chịu sự giám sát.
Đại biểu Huỳnh Nghĩa (thành phố Đà Nẵng) cho rằng: Hoạt động giám sát chuyên đề đối với các vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, trong thời gian qua đã được Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực hiện có nhiều tiến triển và đạt kết quả nhất định . Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát này chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra.
“Một số cuộc giám sát chuyên đề của Quốc hội, Hội đồng nhân dân vẫn còn tình trạng “cưỡi ngựa xem hoa” chưa đi sâu, đi sát để nắm tình hình; chưa đánh giá đúng thực trạng để có kết luận chính xác. Trong khi đó, nghị quyết quyết định thành lập đoàn giám sát với đầy đủ các thành phần, nhưng khi đến làm việc tại địa phương thì chỉ có một vài đại biểu, thời gian làm việc thì hạn chế” – đại biểu Huỳnh Nghĩa phản ánh.
Nhằm khắc phục tình trạng đó, đại biểu đề nghị Luật cần quy định chặt chẽ các vấn đề giám sát chuyên đề để đạt được mục tiêu; đồng thời giải quyết cho được những hạn chế bất cập trong thực tế, bảo đảm hoạt động chuyên đề của Quốc hội và Hội đồng nhân dân phát huy hiệu lực, hiệu quả.
Tại phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội đã cho ý kiến cụ thể về các nội dung: nguyên tắc hoạt động giám sát; thẩm quyền của Hội đồng nhân dân trong việc xem xét kết quả giám sát; hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; giám sát văn bản của đại biểu Quốc hội; giám sát chuyên đề của Ban của Hội đồng nhân dân...
Theo Chương trình, ngày 22/10, Quốc hội thảo luận ở tổ về: Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016. Kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2015; dự toán ngân sách nhà nước (bao gồm việc cho phép đa dạng hóa kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ, việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế) và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2016.
Đánh giá kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015, xây dựng và đề xuất chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020; về phương án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ còn dư của các dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên.