Thưa bà, bà đánh giá thế nào về sự tác động của việc tăng thuế VAT?
Thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu, vì thế tăng thuế thường dẫn đến tăng giá hàng hóa, dịch vụ ở mức độ khác nhau. Mặc dù thuế suất phổ thông đề xuất tăng lên 12% không áp dụng cho nhóm lương thực, thực phẩm, y tế, giáo dục nhưng người tiêu dùng, nhất là những người có thu nhập thấp ít nhiều vẫn bị ảnh hưởng. Còn đối với doanh nghiệp, nếu chứng từ hóa đơn đầy đủ và hợp pháp, thì doanh nghiệp được khấu trừ VAT.
Nếu có tác động đến doanh nghiệp chỉ ở khía cạnh chứng từ, hóa đơn chưa đúng quy định, doanh nghiệp không được khấu trừ thuế, doanh nghiệp sẽ đưa vào chi phí, do đó ở một chừng mực nhất định, sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp.
Hiện nay, trên 90% doanh nghiệp kê khai nộp thuế, khấu trừ thuế và quyết toán thuế qua mạng, nên số doanh nghiệp không đáp ứng được quy định về khấu trừ thuế đã hạn chế nhiều. Nhưng tăng thuế VAT, nếu thu nhập của dân cư không thay đổi, họ có thể tiết kiệm chi tiêu, điều này sẽ ảnh hưởng trở lại đối với doanh nghiệp.
Đánh giá tác động của tăng thuế VAT cần có số liệu, thông tin đầy đủ và chính xác. Về tổng quát, khi tăng thuế sẽ tăng nguồn thu NSNN, có điều kiện cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế. Nhưng cũng cần lưu ý, tăng thuế sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng. Vì vậy Bộ Tài chính cần có đánh giá đầy đủ tác động của việc điều chỉnh 5 sắc thuế đến các nhóm lợi ích dân cư khác nhau, để có sự chia sẻ và tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện chính sách thuế.
Khi đề xuất tăng thuế VAT lên 12%, Bộ Tài chính chắc chắn phải cân nhắc trên các khía cạnh. Khi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) dự kiến điều chỉnh từ 20% giảm xuống 17% và 15% đối với DNNVV có doanh thu 50 tỷ đồng và dưới 3 tỷ đồng; Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) dự kiến còn 5 bậc, mức chịu thuế thu nhập vãng lai chịu thuế từ 2 triệu đồng lên 5 triệu đồng… giả sử các yếu tố khác không thay đổi, thì nguồn thu NSNN từ thuế sẽ giảm bao nhiêu.
Tương tự khi mở rộng cơ sở thuế đối với các sắc thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế VAT …thì dự kiến sẽ tăng thu ngân sách được bao nhiêu, từ đó dự kiến mức tăng thuế để vừa đảm bảo nguồn thu và ổn định nguồn thu cho NSNN, bảo đảm công bằng trong việc nộp thuế và có điều kiện thu hẹp độ doãng của bội chi NSNN.
Còn tăng thuế VAT lên 12% có phải xu hướng chung trên thế giới? Điều này cần hiểu đầy đủ hơn. Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới có xu hướng giảm thuế trực thu (thuế TNDN, thuế TNCN) để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, cải thiện thu nhập của người lao động. Khi phải cơ cấu lại nguồn thu, người ta thường điều chỉnh thuế gián thu (thuế VAT), song song với cơ cấu lại nguồn chi. Việt Nam cũng đang thực hiện theo xu hướng này.
Thuế TNDN giảm từ 32%, xuống 20% và dự kiến đến năm 2019 xuống còn 17% và 15%; Thuế TNCN doãng bậc phải nộp thuế, sẽ có lợi cho người lao động có thu nhập ở mức trung bình khá và khá. Khi bội chi NSNN lớn, cần phải cơ cấu lại chi tiêu, tiết kiệm chi là biện pháp cấp thiết, nhưng để tăng nguồn thu ổn định hơn, Bộ tài chính xem xét đến phương án điều chỉnh thuế gián thu - thuế VAT.
Trong đề xuất của Bộ Tài chính, giá nước sạch sinh hoạt được đề nghị điều chỉnh từ 5% lên 10%, bà có nhận định gì về vấn đề này?
Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số hàng hóa, dịch vụ chưa tính đủ chi phí vào giá thành, thuế VAT đối với một số mặt hàng vẫn được ưu đãi, trong đó có nước sinh hoạt. Vài năm qua, sản xuất và tiêu thụ nước sạch đã thực hiện xã hội hóa, doanh nghiệp sản xuất, phân phối cũng kinh doanh. Nếu vẫn giữ thuế suất ưu đãi 5% là chưa công bằng với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng khác đang chịu mức thuế suất 10%. Vì thế dự kiến sửa đổi Luật thuế VAT vào năm 2019 rất cần tính tới vấn đề này.
Tỷ trọng thuế VAT trong ngân sách hiện là bao nhiêu và nếu không tăng thuế VAT, thì có cách nào để giảm thâm hụt ngân sách, thưa bà?
Năm 2016, tỷ trọng thuế VAT trong tổng thu NSNN khoảng 27%, nếu so sánh thuế VAT trong tổng thu NSNN có thể cao hơn một số quốc gia như EU (EU trung bình là 21%). Nhưng cần lưu ý rằng chỉ so sánh ở một sắc thuế là chưa đủ, bởi để đánh giá mức thu cao hay thấp, cần xem xét đến tất cả các khoản thuế và phí trong tổng thu NSNN và thực trạng nền kinh tế của quốc gia đó.
Đặt vấn đề có cách nào để giảm thâm hụt NSNN, nếu không tăng thuế? Tôi cho rằng tăng thuế là một trong những giải pháp. Kinh nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy tăng thuế không dễ có được sự đồng thuận trong xã hội, bởi nó tác động đến lợi ích của các nhóm dân cư khác nhau. Việt Nam cũng đang trong tình trạng này. Hiện nay Bộ Tài Chính đã, đang thực hiện nhiều giải pháp như (i) Cơ cấu lại chi tiêu NSNN, đặc biệt là chi thường xuyên và chi trả nợ (nhưng không phải một sớm một chiều khắc phục ngay những bất hợp lý); ứng dụng công nghệ tin học trong việc thu thuế và quản lý thuế, để hạn chế thất thu, tránh và trốn thuế; nâng cao hiệu quả chi NSNN; xử lý nghiêm cán bộ thuế vi phạm đạo đức nghề nghiệp…Nhưng do những bất ổn của chi NSNN hàng chục năm để lại, ảnh hưởng lớn đến an ninh tài chính quốc gia, bên cạnh cơ cấu lại chi tiêu NSNN là việc phải làm, thì việc mở rộng cơ sở thuế, điều chỉnh tăng, giảm 5 sắc thuế, trong đó có thuế VAT cần được tính tới.
Tăng thuế VAT được Bộ Tài chính lý giải là không tác động đến doanh nghiệp, mà chỉ là tăng giá đối với người tiêu dùng cuối cùng. Quan điểm của bà về vấn đề này như thế nào?
Tăng thuế VAT sẽ dẫn đến tăng giá, người tiêu dùng sẽ bị ảnh hưởng, nhưng mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới (WB) đối với 20% người thu nhập thấp chỉ chi trả khoảng 9% tổng số thu thuế VAT, còn 20% người có thu nhập cao (người giầu) chi trả khoảng 40% tổng số thu thuế VAT. Cho dù ảnh hưởng của tăng thuế VAT đến các nhóm người tiêu dùng có khác nhau, nhưng cần khảng định: tăng thuế VAT người tiêu dùng bị ảnh hưởng. Còn đối với doanh nghiệp, thuế VAT được khấu trừ. Nhưng do tăng thuế VAT, làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ. Nếu thu nhập của dân cư không tăng, người có thu nhập thấp sẽ tiết kiệm chi tiêu, khi đó có thể có tác động đến doanh nghiệp do hàng hóa tiêu thụ chậm…Vì vậy cần lưu ý vấn đề này.
VAT hiện chiếm hơn 27,5% cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam, tỷ lệ này cao hơn EU khi trung bình chỉ 21%. Việc Bộ Tài chính muốn tăng từ 10% lên 12% với đa số và tăng từ 5% lên 10% đối với nhiều hàng hóa như nước sạch, thiết bị y tế, giáo dục sẽ nảy sinh vấn đề gì, thưa bà?
Như tôi đã trao đổi phần trên, cao hơn hay thấp hơn chỉ ở một sắc thuế chưa nói lên tất cả. Cần phải tính đến tỷ trọng thu của các sắc thuế tiêu dùng, gồm cả thuế VAT trong tổng thu NSNN. Năm 2016, theo số liệu của Bộ Tài Chính, tỷ trọng thu thuế hàng hóa dịch vụ chiếm khoảng 47,5% tổng thu NSNN; trong khi tỷ trọng này ở Lào, Camphuchia, Thái Lan và Phillipines lần lượt là 55,9%; 55,5%;53,9% và 45,6%. Mặt khác tỷ trọng thuế VAT trong tổng thu NSNN cao hay thấp còn phụ thuộc vào mức độ điều tiết của các sắc thuế trong hệ thống thuế của một quốc gia.
Dự thảo điều chỉnh thuế VAT đối với nước sạch, thiết bị y tế, giáo dục từ 5% lên 10% theo tôi là cần thiết. Bởi lĩnh vực này đã được xã hội hóa rộng rãi từ vài năm gần đây, nhưng các doanh nghiệp vẫn chịu mức thuế suất 5%. Vì vậy điều chỉnh để đảm bảo bình đẳng với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở lĩnh vực khác đang chịu mức thuế suất là 10%.
Xin cảm ơn bà!