Lễ hội Pang Phóong bắt nguồn từ sự tích xa xưa còn lưu truyền về chuyện tình dang dở giữa một chàng trai và một nàng vượn hóa thân thành cô gái, nhằm tôn vinh và con người luôn nhớ về cội nguồn, gắn kết cộng đồng.
Tùy theo điều kiện của các dòng họ, lễ hội Pang Phóong được tổ chức 3 hoặc 4 năm một lần, thường được tổ chức vào các tháng 10, 11, 12 (âm lịch) và diễn ra nhiều ngày liên tục.
Hằng năm, khi hoa mào gà nở đỏ trên nương cũng là mùa lúa chín và sau khi thu hoạch xong vụ mùa, đồng bào dân tộc Kháng lại tổ chức lễ hội Pang Phóong.
Nghi lễ diễn ra trong phạm vi một dòng họ và được tổ chức tại gia đình trưởng họ với sự tham gia đóng góp của các gia đình trong dòng họ.
Vào ngày chính hội, ngay từ sáng sớm, nghi lễ cúng tổ tiên được tiến hành. Hầu hết đồ lễ chuẩn bị từ mấy hôm trước được trưởng họ sắp xếp lên gian thờ tổ tiên, để xin phép được làm lễ Pang Phóong cho dòng họ. Khi bày mâm cúng xong, trưởng họ mời thầy cúng vào làm lễ báo tổ tiên và mời tổ tiên về dự lễ phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt…
Nét độc đáo của Lễ hội Pang Phóong thể hiện rõ nét nhất trong trong mâm cúng Pang Phóong. Theo quan niệm của dòng họ Lò Khun, vì tổ tiên của dòng họ là “mẹ Vượn” nên không thể thiếu các loại rau củ quả như: khoai lang, đu đủ, khoai sọ, chuối, bí xanh, bí đỏ…
Ngoài ra, mâm cúng còn có hai ống rượu cần bằng tre cùng bốn cần hút, một gói xôi cẩm, một gói xôi cốm và những con vật hiến tế như lợn, gà.
Đồ cúng tế được chia làm 4 mâm. Thầy cúng vừa làm lễ vừa lấy ở mỗi mâm một ít thức ăn cho vào mâm nhỏ (gọi là “mâm lý”) được làm bằng lá “Mắc-chắc” (loại lá phổ biến của người dân tộc.
Sau nghi thức khai báo và xin phép tổ tiên, với tư cách đại diện cho các chủ hộ trong dòng họ về dự lễ, thầy cúng lấy chum rượu cần, cầm “Peng chẹp kha” (là đồ vật hình chữ A làm từ dây lạt) vẩy rượu từ trong chum sứ ra ngoài với ý nghĩa mời rượu tổ tiên. Đại diện các gia đình trong dòng họ sau đó cũng làm theo, vừa làm vừa khấn những điều may mắn, tốt đẹp đến các thành viên trong gia đình.
Tiếp đến, thầy cúng và gia chủ tiến hành làm lễ ngoài trời, xin phép thổ địa được tổ chức lễ Pang Phóong tại gia đình.
Để thực hiện nghi lễ ngoài trời, bắt buộc phải có một mâm lễ được lót bằng lá chuối, trên đó có một con gà, nửa con cá, nửa củ khoai lang, một nắm xôi cốm và xôi cẩm, một ít bí đỏ, một chai rượu và hai cái chén. Mâm lễ được đặt trên một khoảng đất trống cạnh nhà, thầy cúng cầm theo một cái chiêng trong khi gia chủ cầm một ống tre.
Sau khi khấn xong, thầy cúng gõ chiêng báo hiệu thổ địa đã cho phép dòng họ được tổ chức lễ hội.
Sau khi hoàn thành các nghi thức cúng bái tổ tiên và thổ địa, gia chủ mời mọi người vào dự tiệc. Vò rượu được đặt giữa nhà, chủ nhà làm nghi lễ khai tiệc, mời mọi người cùng thưởng thức rượu cần. Bữa cơm diễn ra trong sự ấm cúng, vui vẻ của cả dòng họ.
Đây cũng là dịp để mọi thành viên trong dòng họ hàn huyên tâm sự, nhắn gửi trao truyền cho nhau những tình cảm yêu thương, trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế gia đình. Kết thúc bữa tiệc, mọi người cùng nhau vui chơi lễ hội.
Phần hội được tổ chức ngay trong nhà của trưởng họ. Mọi người quây quần bên nhau cùng chung vui điệu nhảy “Xé-pang”. Từ già đến trẻ, mỗi người cầm theo một ống tre (tăng-bu) dài hơn 1 m, đã được chuẩn bị sẵn trước đó.
Khi trưởng họ tuyên bố bắt đầu vào hội, mọi thành viên đều rất nhiệt tình hưởng ứng. Hai thanh gỗ dài nối nhau được đặt dọc dưới sàn nhà, khi tiếng trống, tiếng chiêng vang lên, mọi người cùng hòa mình trong điệu múa mô phỏng cách điệu nghi thức chọc lỗ tra hạt truyền thống.
Mọi người đứng sát vào nhau tạo thành vòng tròn để di chuyển vòng quanh, một tay đặt lên vai người phía trước, một tay gõ ống tre cứ thế nối tiếp nhau đi vòng tròn cùng với những bài hát truyền thống thể hiện sự đoàn kết dân tộc, từng nhịp gõ hòa chung tiếng trống tiếng chiêng...
Lễ hội Pang Phóong của đồng bào dân tộc Kháng đến nay vẫn giữ được bản sắc riêng, mang màu sắc huyền ảo, phản ánh hiện thực đời sống tâm linh cộng đồng người Kháng, luôn lấy cội nguồn tổ tiên để rèn tâm dưỡng đức.
Đây cũng là thông điệp kết nối quá khứ với hiện tại, gắn kết cộng đồng, thể hiện khát vọng bình dị ngàn đời về cuộc sống ấm no, hạnh phúc của những người dân vùng Tây Bắc của Tổ quốc.