Cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế khiến hoạt động thương mại của Việt Nam bị giảm khả năng cạnh tranh - Đó là nhận định được nhiều chuyên gia kinh tế đưa ra trong hội thảo “Việt Nam: Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và năng lực cạnh tranh” được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh vào ngày 4/10.
Việc đầu tư đúng mức cho hạ tầng giao thông sẽ giúp Việt Nam nâng cao được năng lực cạnh tranh. |
Việt Nam hiện có 26 sân bay, với 8 sân bay có đường băng dài 3.000 m có khả năng đón nhận các máy bay lớn, 3.200 km đường sắt quốc gia, khoảng 17.300 km quốc lộ, 49 bến cảng với 217 cầu cảng. Mặc dù tiềm năng về cảng biển cũng như dịch vụ logistics của Việt Nam là rất lớn và có nhiều đầu tư công vào việc nâng cấp hạ tầng giao thông nhưng năng lực giao thông vẫn chưa theo kịp tăng trưởng xuất khẩu.
Ông Phạm Minh Đức, chuyên gia kinh tế cao cấp, Ngân hàng Thế Giới cho biết, với 90% nhu cầu thương mại quốc tế của Việt Nam vận chuyển bằng đường biển và công suất cảng biển có thể đáp ứng được nhu cầu song quy hoạch cảng biển mới không phải lúc nào cũng dựa trên những dự báo về nhu cầu. Quy hoạch tổng thể cảng biển không thúc đẩy sự cân bằng giữa cung và cầu trong xử lý container tại các cảng biển. Ví dụ như cảng Cái Mép - Thị Vải được xây dựng với công suất thiết kế là 6,4 triệu TEUs/năm vào thời điểm năm 2011 nhưng nhu cầu hiện nay chỉ đạt 0,5 - 0,7 triệu TEUs. Mức độ sử dụng cảng Cái Mép - Thị Vải là 18% và dự kiến chỉ đạt 40% vào năm 2013. Điều này cho thấy cảng biển nước sâu Cái Mép - Thị Vải vẫn chưa khai thác triệt để, thiếu khối lượng tới hạn để trở thành trung tâm trung chuyển. Cảng này đang ngày càng ít hấp dẫn đối với các hãng vận tải container, đặc biệt trong việc thu hút những tàu lớn.
Bên cạnh việc chậm phát triển về cảng biển thì hệ thống giao thông vận tải đường bộ Việt Nam nhỏ hẹp, xuống cấp trầm trọng cũng đang ảnh hưởng không nhỏ đến việc trung chuyển hàng hóa trong hoạt động kinh doanh thương mại.
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới tại Việt Nam, tắc nghẽn đường cao tốc cũng khiến cho những người sử dụng và không sử dụng hệ thống vận tải hàng hóa phải chịu một khoản chi phí. Ước tính việc tắc nghẽn giao thông có thể khiến cho doanh nghiệp mất 152 triệu USD trong năm 2012 và mất 274 triệu USD trong năm 2020. Trong đó, ảnh hưởng về kinh tế của vấn đề tắc nghẽn giao thông đối với tất cả người sử dụng hệ thống ước tính lên đến 1,7 tỷ USD/năm.
“Mức độ đầu tư hạ tầng giao thông vận tải hàng năm là 3,1% GDP (giai đoạn 2009 - 2011), thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các quốc gia có cùng mức độ phát triển. Trong khi đó, dự kiến năm 2020, xuất khẩu sẽ tăng gấp 3 lần. Như vậy, tình trạng hạ tầng yếu như hiện nay đang là rào cản cho hoạt động thương mại”, ông Phạm Minh Đức khẳng định.
Thực tế cũng cho thấy, trong 15 năm qua, tăng trưởng khối lượng vận chuyển hàng hóa đạt 12%, tăng trưởng thương mại 18%/năm nhưng tăng trưởng đầu tư hạ tầng giao thông chỉ ở mức 0%. Đầu tư vào hạ tầng chỉ khoảng 3% GDP và phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư công.
Ông Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng trường đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cũng cho rằng, cơ sở hạ tầng giao thông phát triển ì ạch là đúng nhưng ngân sách của Chính phủ hạn chế, cho nên rất khó đầu tư công vào hệ thống cơ sở hạ tầng”.
Trong khi cơ sở hạ tầng hỗ trợ thương mại vẫn “giậm chân tại chỗ” thì các quốc gia như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan… lại tích cực đầu tư vào lĩnh vực này. Bởi vậy, các chuyên gia kinh tế dự báo, Việt Nam sẽ mất năng lực cạnh tranh nếu như không đầu tư thêm vào hạ tầng giao thông.
Ông Nguyễn Trọng Hoài cho rằng, trong thời gian tới, Việt Nam cần huy động nguồn vốn tư nhân vào đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua hình thức hợp tác công tư (PPP). Đồng thời, tăng cường hành lang thương mại và tiếp cận với các cửa ngõ quốc tế tăng cường năng lực cạnh tranh thương mại.
Tương tự, ông Đức cũng cho rằng, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, đã thu hút nhiều DN trong và ngoài nước đầu tư nhưng hiện hạ tầng giao thông chậm phát triển. Theo đó, Việt Nam nên xây dựng và thực thi kế hoạch hành động quốc gia về logistic. Trong đó, nên xây dựng gấp một khung pháp lý để thực hiện đầu tư PPP”, ông Phạm Minh Đức nhấn mạnh.
Bài và ảnh: Hoàng Tuyết