Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa và những lễ thức liên quan có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, tâm linh của cư dân ven biển và hải đảo trong nhiều thế kỷ, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tưởng nhớ, tri ân những hùng binh Hoàng Sa, Trường Sa đã hy sinh khi vâng lệnh triều đình hằng năm ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cắm mốc, dựng bia khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên vùng Biển Đông.
Lý Sơn, điểm giao lưu văn hóa
Lý Sơn tục danh là Cù Lao Ré, mà theo cách lý giải của dân gian là cù lao có nhiều cây ré. Nằm cách cảng Sa Kỳ khoảng 30 km, nhưng vào những ngày trời trong biển lặng, đứng trong đất liền ta có thể nhìn rõ năm ngọn núi: Giếng Tiền, Thới Lới, Hòn Tai, Hòn Sỏi, Hòn Vung trên hòn đảo rộng gần 10 km2 này.
Lễ Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa.
|
Đảo Lý Sơn vẫn còn lưu giữ dấu tích của người tiền sử cách đây 30 vạn năm trên các núi Giếng Tiền, Thới Lới. Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy hiện vật quý giá của các nhóm cư dân thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh cách ngày nay khoảng 2.000 - 2.500 năm trước tại Xóm Ốc, Suối Chình. Những dấu tích của nền văn hóa Chămpa vẫn còn hiện diện ở chùa Hang, ở miếu Con Bò… Rồi có lẽ nhờ những thương thuyền qua lại trên Biển Đông mà cư dân trên đảo Lý Sơn còn sớm tích hợp thêm nền văn hóa Ấn, văn hóa Hoa. Trải qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển, Lý Sơn đã trở thành một bảo tàng sống động về các nền văn hóa khác nhau, mà trong đó văn hóa Việt là cốt lõi. Hàng trăm di tích cổ xưa dày đặc trên đảo này giúp ta nhận diện ra điều đó.
Nhờ sự kiến tạo của tự nhiên mà Lý Sơn cũng là nơi có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, như Giếng Tiền, Thới Lới, Chùa Hang, Chùa Đục, Hang Câu, Cổng Tò Vò, Hòn Mù Cu.. và cả đảo Bé nữa.
Lễ thả thuyền và hình nhân thế mạng. |
Huyện đảo Lý Sơn hiện có 3 xã: An Hải, An Vĩnh và An Bình (đảo Bé) với dân số hơn 22.000 người, sống chủ yếu dọc phía bờ tây của đảo lớn. Hoạt động sản xuất chính là bằng nghề đánh cá, các loại hải vật khác trong lộng, ngoài khơi và đặc biệt là trồng hành, tỏi. Tỏi Lý Sơn không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều nơi trên thế giới biết đến.
Cội nguồn nghi lễ
Lần giở những trang lịch sử, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí… của Quốc sử quán triều Nguyễn, lẫn những trang ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục, của Phan Huy Chú trong Hoàng Việt địa dư chí, ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy, cách đây 3 - 4 thế kỷ trước các chúa Nguyễn đã bắt đầu ý thức đến nguồn tài nguyên vô tận, cũng như sớm xác lập chủ quyền lãnh thổ trên vùng Biển Đông của Tổ quốc, mà trước hết đó là tại quần đảo Hoàng Sa. Hằng năm các chúa Nguyễn đã tuyển 70 dân đinh, giỏi nghề đi biển, ở các làng An Vĩnh và An Hải tại vùng cửa biển Sa Kỳ, và sau đó là dân đinh ở phường An Vĩnh và phường An Hải trên đất đảo Lý Sơn, giương buồm nương theo gió nồm vượt sóng ra quần đảo Hoàng Sa.
Nhộn nhịp chuẩn bị ra khơi trên bến cảng Lý Sơn. |
Cứ tháng Hai hoặc tháng Ba âm lịch nhận lệnh ra đi và đến tháng Tám trở về cửa Eo (Thuận An) để nộp cho kinh thành Huế các loại hải vật quý giá và những thứ nhặt được trên vùng biển đảo này, như đồ đồng, đồ thiếc… Theo gia phả, các bản khế ước, các sổ đinh, các văn bản định suất thuế khóa bằng chữ Hán - Nôm của các dòng họ còn trên đảo Lý Sơn và những gì đang lưu truyền trong trí nhớ của nhiều bô lão, thì có 70 suất đinh định chế đi Hoàng Sa và sau này cả Bắc Hải (Trường Sa và các đảo khác), nhiều nhất vẫn là người của làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. 70 định suất đó được phân đều cho các tộc họ, không phân biệt tiền hiền hay hậu hiền, theo nguyên tắc luân phiên nhau và người đăng lính Hoàng Sa thường là con thứ (vì người con trưởng phải ở nhà lo tế tự).
Để có cơ may xác mình còn được yên lành trôi về bản quán, trước khi ra đi mỗi người đi lính Hoàng Sa phải tự chuẩn bị cho riêng mình: một đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây mây, 1 thẻ bài. Nếu không may ngã xuống, thì đôi chiếu, những chiếc đòn tre và các dây mây kia là vật dụng để bó xác người. Người chết sẽ được thả trôi trên biển cùng chiếc thẻ bài đã được ghi tên phiên hiệu. |
Đội Hoàng Sa được thành lập chính thức năm nào, lịch sử không ghi rõ, chỉ biết là vào thời “đầu bản triều”, “hồi đầu dựng nước” (của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tức sớm nhất có lẽ là vào cuối thế kỷ XVI, hoặc đầu thế kỷ XVII). Nếu cứ tạm thời xác định là đội Hoàng Sa, sau này được củng cố thành thủy quân Hoàng Sa (kiêm quản Trường Sa và Bắc Hải, mộ thêm các ngư dân ở Quảng Bình, Bình Thuận, thuộc các làng Tứ Chính, Bình Cố, Cảnh Dương), họat động liên tục suốt 3 - 4 thế kỷ, thì đã phải có hàng vạn người đã phải vượt qua không biết bao nhiêu sóng gầm, bão tố để đo đạc thủy trình, cắm cột mốc dựng bia chủ quyền lãnh thổ và khai thác tài nguyên biển đảo theo lệnh của các chúa Nguyễn và triều Nguyễn sau này.
Cho đến nay, người dân đất đảo Lý Sơn vẫn còn lưu truyền câu ca:
Hoàng Sa trời nước mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về
Hoàng Sa mây nước bốn bề
Tháng hai (ba) khao lề thế lính Hoàng Sa
Câu ca não nùng trên đây là lời tóm tắt số phận của những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa từ thuở xa xưa ấy - những người được vua Tự Đức gọi là những “hùng binh”. Chắc hẳn trong hàng vạn người từng ra đi, không có nhiều người được may mắn trở về. Hình ảnh những khu mộ chiêu hồn không xác người của các tộc họ Phạm Quang, Phạm Văn, Võ Văn… trên đảo Lý Sơn còn phơi bày trong nắng nôi đã là một minh chứng đầy bi hùng trong quá khứ.
Hằng năm vào tháng 2, tháng 3 âm lịch, người Lý Sơn làm lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, hay khao lề tế lính Hoàng Sa. Hầu hết các tộc họ trên đất đảo có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa đều thực thi lễ thức này. Đây là LỄ hay LỆ nhằm khao quân, tế sống và cả các nghi lễ thế mạng cho những người sắp xuống thuyền đi thực thi nhiệm vụ triều đình giao phó. Mặt khác, còn để tế lễ và tưởng nhớ những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa đã khuất.
Bài và ảnh: NGUYỄN ĐĂNG VŨ - NGUYỄN ĐĂNG LÂM