Kế hoạch tổng kiểm tra, rà soát cảng, bến thủy nội địa trên các tuyến đường thủy quốc gia, địa phương nhằm đánh giá hiện trạng của hệ thống cảng, bến thủy, khu neo đậu phương tiện thủy, nhất là cảng, bến thủy không có giấy phép, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông đường thủy, an toàn công trình, làm cơ sở thực hiện các giải pháp siết chặt quản lý cảng, bến thủy thời gian tới.
Theo rà soát của Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, hết năm 2023, cả nước có 310 cảng thủy (202 cảng hàng hóa, 11 cảng hành khách và 97 cảng chuyên dùng), trong đó trên đường thủy quốc gia có 274 cảng, tuyến địa phương có 36 cảng. Tổng số bến thủy trên toàn quốc là 6.062 bến (3.114 bến trên tuyến quốc gia, 1.667 bến trên tuyến địa phương), trong đó 1.271 bến hoạt động không có giấy phép (tuyến quốc gia có 959 bến, tuyến địa phương có 315 bến).
Nguyên nhân số cảng, bến không phép vẫn đang gia tăng là do các địa phương điều chỉnh quy hoạch đường thủy nội địa, nên nhiều bến không còn được gia hạn giấy phép hoạt động. Ngoài ra, nhiều địa phương chưa lập, phê duyệt quy hoạch phát triển giao thông đường thủy hoặc quy hoạch không phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu mở bến thủy.
Thực tế, số lượng các bến thủy hoạt động không phép, bến hết hạn hoạt động chưa được cấp lại hiện nay nằm đan xen với các bến đã được cấp phép hoạt động, gây ra sự bất bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Các phương tiện thủy vào, rời các bến không phép không được kiểm tra, kiểm soát, nộp phí như phương tiện hoạt động tại bến có phép. Đây cũng là nguyên nhân tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông.
Do vậy, giải pháp được Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đề xuất, kiến nghị với Bộ GTVT là ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 08/2021/NĐ-CP quy định về quản lý đường thủy nội địa, trong đó quy định theo hướng: UBND cấp tỉnh chủ trì, tổ chức giải tỏa, cưỡng chế, giám sát các cảng, bến, khu neo đậu, vùng chuyển tải, vùng neo chờ không đủ điều kiện hoạt động và các công trình, nhà hàng nổi, khách sạn nổi hoạt động trái quy định hoặc theo đề nghị của cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành.