Cuộc đấu giá bức tranh cổ “Trúc lâm Đại sĩ xuất sơn đồ” (Đại sĩ Trúc Lâm rời núi) do Trần Giám Như, một họa sĩ Việt Nam vẽ cách đây 650 năm khép lại với giá 1,8 triệu USD đã gây chấn động giới sưu tầm và nghiên cứu mỹ thuật cổ. Kiệt tác hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Liêu Ninh - Trung Quốc, và bản chép được Công ty đấu giá quốc tế Poly (Bảo Lợi - Bắc Kinh) đấu giá thành công, thuộc về một nhà sưu tập Việt Nam giấu tên. Và một bản chép tranh đã được tiến cúng chùa Yên Tử nơi thờ cúng Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Nét bút thần diệu
Theo chuyên gia nghiên cứu mỹ thuật cổ Trịnh Quang Vũ thì bức tranh “Đại sĩ Trúc Lâm rời núi” dài 3,1 m, rộng 0,4 m, miêu tả Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu ở động Vũ Lâm rời núi.
Chuyên gia nghiên cứu mỹ thuật cổ Trịnh Quang Vũ. |
Bố cục tranh gồm 2 trường đoạn:
Trường đoạn 1 miêu tả Đại sĩ rời núi. Ngài ngồi trên kiệu võng đốt trúc đã xuống tóc, vầng trán cao, mày dài, ánh mắt đầy vẻ thông tuệ. Ngài ngồi tọa thiền, mặc áo cổ tràng vạt, tay phải lần tràng hạt, xung quanh có đoàn tùy tùng, kẻ vác lọng tết bằng lá cọ, người gánh theo bộ đồ uống trà, kẻ cầm gậy long trúc… Phía sau là đạo sĩ Lâm Thời Vũ và các lão sư người Hồ dung mạo khác thường, đầu hói, râu quai nón, dáng điệu thanh nhã, khoan thai, người cầm tích trượng, người bưng kim sách. Đặc biệt có vị đại sư kém mắt được dẫn qua cầu đá, gió lộng thổi bay áo thiền. Theo đoàn có voi trắng chở kinh, trang hoàng lộng lẫy cầu kỳ với đôi ngà cong dài, các dải ruy băng trang trí gắn các hạt châu, hoa cúc, đỉnh đầu voi trắng có gắn hình hoa sen cách điệu và chạm mặt trời. Trên lưng voi phủ thảm xứ Ba Tư, trên đặt bành voi hai tầng, chạm khắc hình trang trí. Các giao điểm ruy băng gắn hoa cúc to treo 37 chao lông, lục lạc, chuông đồng rất mĩ lệ.
Bức tranh “Trúc lâm Đại sĩ xuất sơn đồ”. |
Trường đoạn 2 vẽ cảnh nhà vua Trần Anh Tông cùng bách quan, quân lính mang kiệu, lọng, voi ngựa, rước Phật Hoàng về kinh đô. Tranh vẽ đoàn người dài có nhịp điệu, vẽ rất chi tiết về nghi chế nghênh đón của thời Trần: Kiệu lọng ba tầng tay ngai chạm trổ hình rồng mây thời Trần, các nét chạm khắc tầng lớp, ô hộc tỉ mỉ, ngai tựa hình lá đề. Các loại đòn khiêng, kiệu mái, kiệu võng đều chạm rồng mây. Đặc biệt ngai kiệu hoàng đế trang trí dày đặc ba tầng, tua lọng ngai to lớn, thắt quả bồng có hình lá đề kép cùng đôi tay ngai chạm rồng mây. Các võ sĩ khiêng kiệu đội mũ lục lăng, quân cẩm y vệ cầm thiết chùy, côn, thiết giản, đứng hầu cùng con bạch mã thắng yên cương, trên phủ một tấm gấm lớn. Một nội thị đòn gánh chạm rồng mang theo lò đun nước pha trà theo đoàn tùy tùng.
Theo ông Trịnh Quang Vũ, bức tranh đã thể hiện rất rõ về trang phục thời Trần. Vua Anh Tông buộc khăn trên búi tóc, áo hoàng bào kép 5 thân tay thụng, cổ tròn hai lớp, quần dài, chân đi giày cao cổ. Bách quan mặc áo gấm tía tay thụng, mũ chữ đinh kiểu lục lăng, có tai mũ quấn cong ra sau, đi giày da. Các quân cẩm y vệ (thân quân) vác bảo kiếm hộ vệ. Một đại quan vác Thượng Phương bảo kiếm đứng hầu. Điều này cũng là minh chứng cho việc khẳng định họa sĩ Trần Giám Như là người Việt.
Mặt khác, bức tranh diễn tả phong cảnh thiên nhiên Ninh Bình hùng vĩ với các dãy núi cao xa mờ, mây vờn núi, đoàn người ven theo đường nhỏ, vách núi dọc theo sông Ngô Đồng có nhiều loại cây cỏ, hoa lá tươi tốt xum xuê. Bên đường, những cây ngô đồng, thông già, cây xưa cổ thụ oằn oài gốc rễ xù xì, với những thân cây nghiêng ngả, trơ cành cùng những khóm trúc ngả nghiêng theo gió cuốn rực rỡ…
Họa sĩ là người rất am hiểu, quen thuộc thiên nhiên Vũ Lâm (Ninh Bình nay), nên đã miêu tả những nhân vật trong tranh cùng với phong cảnh Vũ Lâm. Nên nhớ, động Vũ Lâm là căn cứ chỉ huy cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, ai đó cho rằng tác giả là người Trung Hoa sẽ không lý giải được điều này.
Sử sách ghi rằng năm Giáp Ngọ Hưng Long thứ 7 (1294) Đại sĩ về thăm lại Vũ Lâm - Bích Động. Năm sau (1295) Đại sĩ về lại Động Vũ Lâm tu hành, ngài đã làm bài thơ "Cuối thu ở Vũ Lâm":
Lòng khe in ngược bóng cầu hoa
Hắt sáng bờ khe vệt nắng tà
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ
Mây giăng như mộng tiếng chuông xa
(Trần Thị Băng Thanh dịch)
Hình ảnh trong bài thơ “Vũ Lâm thu vãn” của Phật Hoàng đã được họa sĩ tái hiện với hành cung lúc chiều tà, non nước rơi đầy lá đỏ, nghe tiếng chuông chùa Sở ở Văn Lâm do vua Trần Thái Tông xây. Phong cảnh thiên nhiên ở động Vũ Lâm tuyệt đẹp đã được họa sĩ vẽ làm nền tranh, bố cục khéo léo, tạo nhịp điệu sống động khi Trúc Lâm đại sĩ xuất núi, trở thành một họa phẩm lịch sử đầy ấn tượng, chuyển tải nhiều thông điệp văn hóa của thiền phái Trúc Lâm. Theo họa sĩ Trịnh Quang Vũ, nét bút thần diệu phong cách đồ họa Việt, có đường nét viền là chủ yếu khi vẽ trúc, vẽ đá khác xa với lối thủy mặc của Trung Quốc là đậm nhạt hòa cùng, tạo nét chấm phá (không có đường viền ngoài) dựng mảng trong không gian. Cách vẽ đường viền từ diễn tả cây, hoa lá, dáng điệu người cùng voi, ngựa, kiệu võng cho thấy rõ ràng, đường nét hình mạnh, liên tục chuẩn mực làm rõ trang trí Việt cổ càng khẳng định tác giả là người Việt.
Số phận trầm luân
Sự xuất hiện của bức họa thư tiềm ẩn nhiều bí mật của lịch sử. Cuối thế kỷ XIII, Hốt Tất Liệt diệt xong nhà Nam Tống, đặt ách thống trị trên toàn Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên. Đến giữa thế kỷ XV, nhà Nguyên suy thoái, đại loạn, dân Hán nổi lên chống Nguyên khắp nơi. Từ năm 1345 có ba cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyên lớn như: Trần Hữu Lượng là con trai thứ hai Trần Ích Tắc, cháu ruột vua Trần Nhân Tông, Trương Hữu Thành và Chu Nguyên Chương. Trần Hữu Lượng khởi nghĩa ở Bái Trạch năm 1354 thắng lợi, chiếm cứ một vùng rộng lớn nay là các tỉnh Giang Tô, Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Bấy giờ vua Trần sai người đi dò la xem hư thực, tìm cách tiếp xúc với Trần Hữu Lượng, nên sau khi khởi nghĩa đã có giao hảo với nhà Trần. Theo “Trần gia ngọc phả” Trần Ích Tắc là con thứ năm vua Trần Thánh Tông, em vua Trần Nhân Tông.
Trần Hữu Lượng đã giấu gốc tích hoàng tộc Việt của mình để khởi nghĩa. Sử sách ghi rằng khi Trần Ích Tắc đem gia quyến và quân lính đến đầu hàng nhà Nguyên năm 1295, đã được phong làm An Nam quốc vương. Khi Nguyên Thế tổ chết (1294) con nối ngôi là Nguyên Thành Tông thấy vai trò lịch sử của Ích Tắc đã hết, nên đã hạ chỉ thu hồi ruộng đất đã cấp cho vong vương và đưa về Ngạc Châu. Sự thay đổi đột ngột lớn này đã làm cho đời sống thiếu thốn, con cái li tán. Điều đó đã ảnh hưởng tới Trần Hữu Lượng. Cha con Ích Tắc vẫn có mộng làm vua do thần nhân báo mộng “khi vua Thái Tông sinh Ích Tắc, vị thần ba mắt từ trên trời xuống nói bị thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về phương bắc”. Sau khởi nghĩa, tháng 6/1360, Trần Hữu Lượng xưng đế quốc hiệu là Hán, đặt niên hiệu Đại Nghĩa, kinh đô ở Nam Kinh, chiếm cứ một vùng rộng lớn Chiết Giang, Hồ Quảng (Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông). Trần Giám Như ở Hàng Châu thuộc vùng đất của Trần Hữu Lượng, nên mới có thể vẽ tranh ca ngợi vua Trần Nhân Tông - vị anh hùng đã hai lần chiến thắng giặc Nguyên xâm lược Đại Việt. Năm 1366, Hữu Lượng đánh nhau với Chu Nguyên Chương ở hồ Phiên Dương, Hữu Lượng bị tên bắn chết trận. Chu Nguyên Chương đem quân đến vây thành Vũ Xương, con Lượng là Trần Lý đầu hàng.
Bức tranh đã trở thành báu vật của các hậu duệ nhà Trần lưu lạc ở Trung Hoa, được giấu kín. Bức tranh được tái xuất hiện do hai chủ nhân tranh được truyền tiếp theo là Trung thư xá nhân Trần Đăng và nhà sư già Giao Chỉ (Giao Chỉ học Phật nhân) Trần Quang Chỉ, là hậu duệ nhà Trần. Ông Chỉ đã có bài tán viết vào dưới tranh để giới thiệu như sau: “Đại sĩ là con vua Trần Thái Tông, trước khi sinh, vua cha đã mơ thấy Thượng đế ban cho thanh bảo kiếm. Khi sinh, Vua đẹp đẽ thông thái, mỗi ngày có thể đọc vạn lời, khi lớn lên thông tam giáo nhưng yêu thích đạo phật. Vương thông hiểu lịch số, binh pháp, y dược, âm luật, các môn đều thấu hiểu đến chỗ uyên áo…
Được biết, họa sĩ Trịnh Quang Vũ đang nung nấu ước nguyện chép lại bức kiệt tác này. Dù đã gần 70 tuổi, nhưng ông sắp có những nét đầu tiên…
Bảo Dân