Nghề báo đã trao sứ mệnh đặc biệt của nó cho những ai dấn thân vào công việc đầy khó khăn, vất vả, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng; nhưng cũng mang lại cho họ một cuộc đời thật sự-cuộc đời được cống hiến và trải nghiệm ở bất cứ hoàn cảnh nào và ở bất cứ đâu. Nhà báo Trần Mai Hưởng, nguyên Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, cũng đã làm tròn sứ mệnh đó bằng bản lĩnh và nhiệt huyết của ông.
Trong cuộc đời làm báo của mình, nhà báo Trần Mai Hưởng đã có những khoảng thời gian đặc biệt khi ông có mặt ở những khoảnh khắc đặc biệt của lịch sử. Ông từng ở chiến trường Quảng Trị những ngày tháng ác liệt nhất năm 1972. Ông cũng là một trong những phóng viên có mặt đầu tiên tại Dinh Độc Lập ngày 30/4-giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; hay những ngày tháng đầy cam go của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1979. Cho đến hôm nay, độc giả vẫn ấn tượng với những bài viết của ông như Lá thư từ khu tập trung; Bích La Đông giải phóng; Trên vành đai điện tử; Bám trụ trên quê hương, đánh giặc, giữ làng; Sáng xuân Huế đỏ cờ bay; Đà Nẵng ngày đầu giải phóng,… Bức ảnh “Xe tăng Quân giải phóng chiếm Dinh Độc Lập 30/4/1975” trở thành một biểu tượng quen thuộc của ngày đại thắng.
Nhà báo Trần Mai Hưởng bên cầu Hiền Lương năm 1973. |
1. Cách đây sáu, bảy năm tôi có dịp may mắn được cùng đoàn cán bộ, phóng viên của TTXVN về Quảng Trị, thăm nghĩa trang Trường Sơn, đi qua làng Vây, sân bay Tà Kơn, cầu Đakrông,... Trong chuyến đi ấy, có nhà báo Trần Mai Hưởng, khi đó ông là Phó Tổng giám đốc TTXVN. Có một điều đặc biệt gây ấn tượng với cánh phóng viên trẻ chúng tôi, khi đến bất cứ địa danh nào ở miền đất ấy, ông cũng kể và gọi tên với sự trìu mến, thân thuộc như được trở về nhà. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ đơn giản là ông từng đi công tác nhiều nên thuộc vậy thôi. Cho đến bây giờ, khi đọc “Năm tháng xa xanh” của ông thì tôi mới hiểu vì sao Quảng Trị trong ông lại sâu đậm đến vậy và vì sao mà Quảng Trị cho đến bây giờ, trong trái tim ông đã trở thành một miền ký ức với “nhiều kỷ niệm, nhiều ân tình không thể nào quên”.
Trước Tết Nhâm Tý 1972 khoảng một tuần, nhà báo Trần Mai Hưởng được tăng cường vào tuyến lửa Quảng Trị, sau hai năm đầu làm phóng viên phân xã Hà Tây. Chuyến đi đầu tiên và cũng là lần đầu tiên đi xa nhà, với một người trẻ không khỏi những hồi hộp, lo lắng. Nhưng ông nói rằng, với thế hệ của ông, ra đi là lẽ tất nhiên và “chiến trường luôn có sức cuốn hút mãnh liệt đối với chúng tôi, mặc dù mỗi người đều cảm nhận được những ác liệt, hy sinh đang đợi mình”.
Chiến tranh ác liệt chẳng loại trừ ai, bom mìn vô tình với tất cả. Hơn một lần ông đã phải dùng đến từ “nếu như mình có làm sao” khi phải đối mặt với cái chết, bị pháo kích, bom nổ trước mặt, máy bay trinh sát OV 10 lượn trên đầu, phải vượt qua những cung đường mà máy bay địch rải bom bi nổ chậm. Nhưng cùng với đồng nghiệp, nhà báo Trần Mai Hưởng, khi đó là chàng trai trẻ, chưa lập gia đình, vẫn đi về giữa hai bờ sông Bến Hải làm tin, viết bài, chụp ảnh. Chính những năm tháng ác liệt ấy, được chứng kiến, được gặp gỡ những con người quả cảm, những người dân bám đất bám làng, đến với giới tuyến chia hai miền Nam - Bắc, gặp những con người ở vành đai điện tử đã cho ông những cảm xúc đặc biệt và những bài báo làm rung động lòng người.
2.Bài báo đầu tiên ông viết trên mảnh đất Quảng Trị là“Lá thư từ một khu tập trung” về cuộc sống cơ cực của bà con trong khu tập trung Quán Ngang - một khu tập trung lớn nằm khoảng giữa Dốc Miếu đến Đông Hà. “Trên nền cát trắng, hàng trăm mái tôn chen chúc, xunh quanh dây kẽm gai quây kín, bốt gác lính Ngụy nối nhau”, nơi đây là ranh giới của chiến tranh và hòa bình, của hai miền Nam - Bắc, là “vành đai trắng” khốc liệt; nhưng cũng ở nơi đó, bà con vẫn vững niềm tin vào cách mạng, bất khuất, kiên cường. “Sự tàn phá, cướp bóc, đàn áp của kẻ thù đã đến hết mức! Khi những mũi nhọn của dây thép gai chà xiết vào lòng cát quê hương, con người bị dồn đến cùng đường sự sống, thì có con đường nào khác ngoài con đường đứng lên?”. Ông viết về những người dân nơi đây chỉ bằng một câu như thế này đã nói lên tất cả ý chí của cả dân tộc, đinh ninh và cương quyết đến tận cùng.
Cuốn sách “Năm tháng xa xanh” (Nhà xuất bản Thông tấn, 2013) là tổng hợp hồi ức của nhà báo Trần Mai Hưởng thời kỳ làm phóng viên chiến trường ở mặt trận Quảng Trị (1972-1973), đại thắng mùa xuân 1975, những năm tháng trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1979; cùng những tin, bài, ảnh của tác giả trong thời gian tham gia các chiến trường. |
Và cũng ở mảnh đất ấy, nhà báo Trần Mai Hưởng đã gặp biết bao con người quả cảm khiến trái tim ông rung động, vừa cảm phục vừa nể trọng. Đó là Thu Hồng, đội viên kiêm giáo viên văn hóa của đội du kích xã Gio Mỹ (Gio Linh). Thu Hồng có bố mẹ là cán bộ cao cấp, cô được gửi ra Bắc học nhưng đang học phổ thông đã tình nguyện xin về quê chiến đấu. Nhưng cô gái ấy đã hy sinh sau khi ông gặp khoảng một tháng, lúc tuổi mới đôi mươi ngay trong đêm đầu tiên của chiến dịch giải phóng Quảng Trị, khi cùng đồng đội đánh chiếm căn cứ địch ở Bến Ngự. Bức ảnh chụp Thu Hồng cũng là bức ảnh đầu tiên của nhà báo Trần Mai Hưởng, bức ảnh rất đẹp “chụp cô gái đang ngắm bắn, gương mặt xinh đẹp sáng lên trong nắng và rất duyên dáng dưới vành mũ tai bèo”.
Cũng trên mảnh đất đầy bom đạn khói lửa này, ông đã gặp chị Khuya, cán bộ phụ nữ xã Triệu Trạch (Triệu Phong), khi đó lo hậu cần cho Đảng ủy. Do nhiều năm sống dưới hầm gây dựng phong trào, chỉ ban đêm mới lên trên mặt đất hoạt động, cho đến sau này khi giải phóng rồi những ngày đầu chị không dám ra đường vì không quen ánh sáng mặt trời… Ông còn gặp nữ du kích nổi tiếng với tài bắn tỉa Hoàng Thị Chẩm, những bà má có con đi chiến trận, những cán bộ mẫn cán vì dân vì nước, những o du kích, những em nhỏ,… Bất cứ ai ông gặp, đều cho ông những cảm xúc khó quên và điều này khiến các trang viết của ông trở nên lôi cuốn, giàu hình ảnh và đậm chất nhân văn.
3.Quảng Trị không chỉ khiến nhà báo Trần Mai Hưởng có những năm tháng trải nghiệm sâu sắc, cùng với các đồng nghiệp vượt bao khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ thông tin, mà còn nuôi dưỡng tâm hồn ông để có những bài thơ, truyện ngắn đầy ý nghĩa. Chất liệu cuộc sống ấy, với trái tim ấm nóng, đầy nhiệt huyết, khiến ông dù không phải là dân văn chương chuyên nghiệp (ông học Đại học Kinh tế kế hoạch) nhưng đã có những tác phẩm văn học sâu sắc, ngôn ngữ giản dị nhưng giàu hình ảnh. Ngòi bút của ông, không chỉ với báo chí mà cả với văn chương, trưởng thành trong chính những năm tháng ác liệt, ở những thời điểm lịch sử trọng đại ấy.
Những ngày đầu đến Quảng Trị, tới thăm địa đạo Vĩnh Mốc, khi xuống các ngách hầm sâu, chứng kiến nơi đây sự sống hiện diện mãnh liệt hơn nơi nào khác: làng hầm ngăn nắp, có nơi hội họp, có giếng nước, trạm cứu thương, hoa tình yêu vẫn nảy nở, các em bé vẫn ra đời. “Nơi hầm tối là nơi sáng nhất” ấy đã khiến cảm xúc dâng trào, những câu chữ bất chợt tuôn chảy và ông ngay lúc đó chép vào cuốn sổ tay: “Chẳng có bóng cau xõa ngang trời/Những đám mây trôi, các cô gái làng đùa nghịch/Chỉ mạch nước ngàn đời trong vắt/Giếng giữa lòng địa đạo hầm sâu”. Đây là những câu thơ trong bài “Giếng nước dưới địa đạo”-bài thơ đầu tiên ông viết ở tuyến lửa, sau đó ít ngày được đăng trên báo Văn nghệ và được nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm trên Đài Tiếng nói Việt Nam trong chương trình Tiếng thơ.
Cũng thời gian ngắn sau đó, cùng với “Bích La Đông giải phóng, bút ký “Trên vành đai điện tử”, “Đất quê hương”, ông viết truyện ngắn đầu tay “Mẹ Tư”- nguyên mẫu là một bà mẹ ở khu tập trung Quán Ngang nhiều năm giả điên để làm cơ sở cho cách mạng, truyện sau đó đăng trên báo Văn nghệ. Niềm vui ấy khiến ông viết tiếp “Đôi mắt mặt trận” (truyện cũng đăng trên báo Văn nghệ, minh họa của Bùi Xuân Phái), “Mùa bướm trắng”,…
4. Sau chuyến đi đầu tiên về Quảng Trị năm 1972 rồi lần trở lại Quảng Trị tháng 3/1973 với nhiệm vụ chủ yếu là thông tin về triển khai hiệp định Paris vừa ký, nhất là việc trao trả tù binh ở bờ sông Thạch Hãn; ông còn quay lại Quảng Trị nhiều lần nữa. Ông không bỏ lỡ bất cứ một dịp nào để có thể quay lại nơi này, tới thăm những người con kiên cường và gia đình họ, với một tình cảm thân tình, thắm thiết như người trong gia đình. Với ông, đến với Quảng Trị đồng nghĩa với trở về.
Cũng bởi gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây nên khi viết “Năm tháng xa xanh”, ông không ngại ngần nét bút: “Tôi đã đi nhiều nơi trên đất nước nhưng những ngày ở Quảng Trị với những năm tháng trẻ trung, sôi nổi ấy đã để lại dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời làm báo của tôi”. Cũng bởi thế mà có thể hiểu vì sao, dù đã bốn mươi năm kể từ lần đầu tiên ông đặt chân lên mảnh đất này nhưng cảm xúc vẫn chỉ như mới hôm qua, còn vẹn nguyên, tươi mới và đầy xúc động.
Hoàng Linh