Theo báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (SCMP), các nhà sản xuất quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ hy vọng sẽ thu hút các quốc gia châu Á đang quan tâm đến việc giảm sự phụ thuộc vào vũ khí nhập khẩu bằng cách đề nghị hợp tác phát triển vũ khí cho các thiết bị quân sự như máy bay chiến đấu Kaan thế hệ thứ năm, xe tăng chiến đấu chủ lực Altay hay tàu sân bay hạng nhẹ L400 - tàu chiến đầu tiên trên thế giới dành cho máy bay không người lái.
Với tư cách là thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Thổ Nhĩ Kỳ mang đến cho khách hàng khả năng tiếp cận các công nghệ quốc phòng tiên tiến mà không phải đáp ứng những điều kiện khó khăn từ các nhà xuất khẩu Mỹ và châu Âu. Điều này cho phép người mua tránh được lựa chọn thay thế nhạy cảm về mặt chính trị, từ đó có nguy cơ dẫn đến các lệnh trừng phạt của phương Tây.
Ali Bakir, thành viên cấp cao tại Sáng kiến an ninh Trung Đông Scowcroft trụ sở tại Washington, cho biết: “Thiết bị quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ nổi bật vì hiệu quả về mặt chi phí, đáng tin cậy và trong một số trường hợp, vượt trội so với các thiết bị thay thế khác”.
Vị chuyên gia người Thổ Nhĩ Kỳ này tiết lộ gần đây, nhiều quốc gia ở Trung Đông đã mua máy bay không người lái chiến đấu của Thổ Nhĩ Kỳ sau khi “có trải nghiệm không mấy hiệu quả đối với các máy bay không người lái đắt đỏ của Trung Quốc như Wing Loong-1 và 2.
Năm ngoái, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) đã đặt đơn hàng ước tính trị giá 2 tỷ USD cho 120 máy bay không người lái TB2 tầm trung Bayraktar của Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi phương tiện này thể hiện xuất sắc trên chiến trường Ukraine.
Hồi tháng 7, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã nhận được đơn đặt hàng quốc phòng lớn nhất từ Saudi Arabia, với hợp đồng giá trị 3,1 tỷ USD cho máy bay không người lái chiến đấu Akinci. Hợp đồng đề cập đến điều kiện chuyển giao công nghệ để cho phép Saudi Arabia sản xuất trong nước máy bay không người lái của Thổ Nhĩ Kỳ.
Về phần mình, Hàn Quốc từ lâu nổi lên là một nhà sản xuất quốc phòng uy tín trên thị trường vũ khí châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, giống Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia Đông Á này cũng là một đồng minh của Mỹ.
Dave DesRoches, giáo sư làm việc tại Trung tâm Cận Đông Nam Á của Đại học Quốc phòng Mỹ ở Washington, cho biết: “Nhìn chung, hiện tại xuất khẩu vũ khí của Hàn Quốc đang được ưa chuộng hơn Thổ Nhĩ Kỳ. Hàn Quốc nổi tiếng là nhà sản xuất thiết bị dân dụng chất lượng, bao gồm cả thiết bị công nghệ cao”.
Là một người chơi mới nổi, ngành công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ cho đến nay vẫn luôn chật vật trong việc giành các đơn đặt hàng lớn từ các nước ở châu Á-Thái Bình Dương. Ankara đã mất hợp đồng trị giá 920 triệu USD cung cấp cho Malaysia 15 máy bay chiến đấu hạng nhẹ vào đầu năm nay và hợp đồng trị giá 574 triệu USD với Philippines về 6 tàu tuần tra ngoài khơi vào các "đối thủ" Hàn Quốc.
Theo Giáo sư DesRoches, mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ sẽ khó có thể theo kịp danh tiếng của Hàn Quốc trên thị trường vũ khí song Thổ Nhĩ Kỳ vẫn giữ được lợi thế đáng kể về chi phí so với hầu hết các quốc gia xuất khẩu vũ khí phát triển.
“Với sự cởi mở của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc hợp tác, bao gồm liên doanh và chuyển giao công nghệ, nhiều người tin rằng tương lai các nhà sản xuất quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ giành được thị phần lớn hơn trên thị trường châu Á chỉ là vấn đề thời gian”, ông Bakir nhận định.
Trong những năm gần đây, các công ty Thổ Nhĩ Kỳ đã nỗ lực để thiết lập vị thế dẫn đầu trong khu vực.
Vào tháng 3 năm ngoái, nhà sản xuất FNSS có trụ sở tại Ankara đã cung cấp 10 khung xe tăng chiến đấu hạng trung Kaplan đầu tiên cho liên doanh Pindad của Indonesia. Cùng tháng, Công ty Hàng không Vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ và đối tác Italy Leonardo cũng bắt đầu giao sáu máy bay trực thăng T-129 Atak cho Philippines theo hợp đồng trị giá 270 triệu USD.
Đến tháng 5 năm nay, Công ty Hàng không Vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục đạt được hợp đồng trị giá 92 triệu USD cung cấp 3 máy bay không người lái tầm trung Anka cho Malaysia. Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã bán hàng trăm loại xe bọc thép khác nhau cho Indonesia, Malaysia và Philippines để đặt nền móng cho việc có được thị phần lớn hơn tại thị trường châu Á.
Bernard Loo, một nhà nghiên cứu quân sự cấp cao tại Viện nghiên cứu quân sự quốc tế Rajaratnam của Singapore, chỉ ra ban đầu, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chỉ thu hút được những người mua đang phải đối mặt với các lệnh trừng phạt hoặc lệnh cấm buôn bán quốc phòng từ các nhà cung cấp lớn của châu Âu và Mỹ, ví dụ như Indonesia và Pakistan.
Tuy nhiên, các cơ hội khác vẫn còn rộng mở đối với quốc gia Tây Á này khi các quốc gia như Malaysia và Thái Lan muốn tự mình bước lên nấc thang công nghiệp quốc phòng, không chỉ đơn giản là nhập khẩu thiết bị quốc phòng mà còn bắt đầu sản xuất thiết bị quốc phòng của riêng mình và cuối cùng trở thành nhà xuất khẩu.