Chia sẻ tại. Tọa đàm “Giải pháp quản lý hoạt động gây nuôi thương mại động vật hoang dã tại Việt Nam” do Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) tổ chức sáng 13/9, ông Thomas Lyons, Giám đốc văn phòng Cơ quan Phòng chống ma tuý và thực thi pháp luật quốc tế - Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam cho biết, tội phạm về động vật hoang dã (ĐVHD) cũng giống như bất cứ tội phạm nào khác, những nỗ lực xử lý các đối tượng vi phạm là rất quan trọng nhằm thực thi những cam kết chung bảo vệ ĐVHD, ngăn chặn tội phạm quốc tế.
"Theo Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi, Việt Nam đã nâng mức hình phạt với tội phạm ĐVHD, đối tượng buôn bán ĐVHD có thể bị phạt tù lên tới 15 năm và phạt tiền lên tới 15 tỷ đồng, hành lang pháp lý đã có đủ, điều cần thiết là đảm bảo cho các chế tài này được thực thi trong thực tế. Tuy nhiên, một khía cạnh chưa được chú ý nhiều là nạn buôn bán ĐVHD trái phép, phần lớn các vi phạm này liên quan đến hoạt động "rửa" ĐVHD, các đối tượng lợi dụng hoạt động thương mại hợp pháp để buôn bán ĐVHD và sản phẩm từ ĐVHD trái phép, điều này thường thấy ở các cơ sở nuôi ĐVHD được cấp phép", ông Thomas Lyons nhấn mạnh.
Chia sẻ thực tế tình trạng gây nuôi thương mại ĐVHD tại Việt Nam, bà Bùi Thị Hà, Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) cho biết, pháp luật đã yêu cầu hoạt động gây nuôi thương mại ĐVHD không được gây ảnh hưởng tiêu cực đến quần thể loài trong tự nhiên. Tuy nhiên, sự thực là mức độ ảnh hưởng của hoạt động này vẫn chưa được hiểu rõ và nghiên cứu đầy đủ. Các chuyên gia quốc tế về nhiều nhóm loài khác nhau đều bày tỏ quan ngại sâu sắc về tốc độ gia tăng của các hoạt động khai thác và “nhập lậu” ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm mà nhiều loài trong số đó không hề phù hợp để gây nuôi thương mại.
Theo quy định hiện hành, các cơ sở nuôi có thể được cấp phép nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng hợp pháp ít nhất 39 loài hiện đang bị đe dọa trên toàn cầu. Nếu hoạt động gây nuôi thực sự là mô hình khép kín, nghĩa là không tiếp tục khai thác ĐVHD từ tự nhiên thì vấn đề này không đáng lo ngại. Tuy nhiên, theo đại diện ENV, trên thực tế, tình trạng nhập lậu từ tự nhiên diễn ra tràn lan, ảnh hưởng lớn đến đa dạng sinh học của Việt Nam và cả các quốc gia khác trong khu vực.
Theo bà Hà, hiện có khoảng 9.000 cơ sở nuôi thương mại ĐVHD đã được cấp phép ở Việt Nam. Số lượng các cơ sở trên thực tế có lẽ còn nhiều hơn nếu tính cả các cơ sở không được cấp phép hoặc đang trong quá trình thực hiện các thủ tục cần thiết để được cấp phép.
Theo một nghiên cứu tiến hành trong giai đoạn 2014 - 2015 của ENV, toàn bộ 26 cơ sở nuôi thương mại ĐVHD được khảo sát đa phần là các trại nuôi có quy mô lớn đều có dấu hiệu “nhập lậu” ĐVHD.
Gần đây hơn, ENV đã ghi nhận một khối lượng rất lớn ĐVHD, khoảng gần 30 tấn, được vận chuyển từ các cơ sở tại miền Nam đến cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) chỉ trong thời gian hơn 10 ngày, nhiều khả năng phần lớn các cá thể ĐVHD của lô hàng này đã bị săn bắt từ tự nhiên, rồi được “phù phép” trở thành ĐVHD có nguồn gốc từ các cơ sở nuôi được cấp phép.
Năm 2019, ENV đã nhận được thư tố cáo của một “nhóm cán bộ ngành lâm nghiệp” về các vấn đề tồn tại trong lĩnh vực quản lý hoạt động gây nuôi thương mại ĐVHD. Thư này tố cáo nhiều chủ cơ sở nuôi thương mại ĐVHD ở khu vực phía Nam đã cấu kết chặt chẽ với các cán bộ chủ chốt chịu trách nhiệm quản lý để hợp pháp hóa ĐVHD được nhập lậu vào các cơ sở nuôi “hợp pháp” này.
Theo thông tin từ một số đối tượng hoạt động trên địa bàn thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), ĐVHD bị buôn lậu bao gồm cả nhiều loài thuộc Phụ lục II CITES (Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp) theo quy định cần phải được Cơ quan thẩm quyền quản lý CITES Việt Nam cấp phép xuất khẩu. Số ĐVHD này được đưa đến biên giới rồi “tuồn lậu” qua biên giới mà không có giấy tờ hợp pháp.
Cũng theo đại diện ENV, những đối tượng buôn lậu có thể dễ dàng “mua” giấy tờ từ cơ sở nuôi đã được cấp phép để chứng minh ĐVHD được vận chuyển có nguồn gốc hợp pháp. Nhiều cơ sở đã và đang nuôi nhốt ĐVHD có nguồn gốc bất hợp pháp trong một thời gian dài trước khi đăng ký với cơ quan chức năng hay nuôi các loài không phải là loài đã được cấp phép nuôi.
Để hạn chế vấn nạn trong hoạt động nuôi thương mại ĐVHD hiện nay, theo đại diện ENV, tăng cường công tác quản lý và thực thi pháp luật chính là hướng đi lâu dài để quản lý hiệu quả hoạt động gây nuôi thương mại ĐVHD. Trước mắt, ENV đang đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp chặt chẽ với Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật để ban hành một danh mục các loài ĐVHD được phép gây nuôi vì mục đích thương mại.
Thay vì quy định những loài không được phép gây nuôi thương mại, danh mục này sẽ quy định những loài có thể được gây nuôi và giới hạn hoạt động gây nuôi ĐVHD vì mục đích thương mại chỉ được thực hiện với những loài thuộc danh mục này. Quản lý theo phương pháp này sẽ góp phần bảo vệ các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm bằng cách chấm dứt được tình trạng săn bắt, nhập lậu các loài này vào các cơ sở đăng ký gây nuôi thương mại.
Ông Nguyễn Quảng Trường, chuyên gia Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật chia sẻ, để phát triển bền vững nghề gây nuôi ĐVHD vì mục đích thương mại cần đảm bảo các yếu tố như có quy hoạch hợp lý về vùng nuôi, đối tượng nuôi và quy mô nhân nuôi. Đồng thời, cần có đánh giá, dự báo về thị trường và có hướng dẫn kỹ thuật nuôi, đánh giá rủi ro. Đặc biệt, cần quản lý và giám sát hiệu quả những loài nên đưa vào nuôi thương mại, bao gồm những loài sinh sản tốt trong điều kiện nuôi nhốt, có hiệu quả kinh tế và không bị đe doạ tuyệt chủng trong tự nhiên. Một số ít loài ngoại lệ khác cũng có thể được đưa vào danh mục này nhưng cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng từ các cơ quan khoa học CITES, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Việc ban hành một danh mục các loài ĐVHD được phép gây nuôi vì mục đích thương mại là một giải pháp có thể ngăn chặn tình trạng lợi dụng lỗ hổng pháp luật về quản lý hoạt động gây nuôi thương mại ĐVHD, loại bỏ những tác động tiêu cực của hoạt động này đối với các loài ĐVHD đang bị đe dọa và đơn giản hóa đáng kể các thủ tục cho cả người nuôi và cơ quan quản lý trên toàn quốc. Đây là giải pháp toàn diện vì lợi ích bảo tồn đa dạng sinh học, đảm bảo tương lai an toàn cho các loài ĐVHD, đồng thời cho phép người dân phát triển kinh tế và tăng lợi nhuận mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến thiên nhiên.