Nghị định này quy định về nguyên tắc thực hiện chế độ báo cáo, nội dung, hình thức báo cáo; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện chế độ báo cáo về điều tra hình sự.
Trong đó, về hình thức, báo cáo phải được thực hiện bằng văn bản, có chữ ký, họ tên của người có thẩm quyền ký báo cáo, đóng dấu phát hành theo quy định kèm theo tệp dữ liệu điện tử.
Báo cáo được gửi đến cơ quan nhận báo cáo bằng một trong các phương thức: gửi bằng đường bưu điện; gửi trực tiếp; gửi qua fax; gửi qua hệ thống phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu điều tra hình sự dưới dạng file ảnh (định dạng PDF) hoặc file dữ liệu điện tử có chữ ký số.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ trưởng, Thứ trưởng: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ký báo cáo của bộ, ngành mình về công tác điều tra hình sự theo thẩm quyền điều tra quy định tại Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
Báo cáo về điều tra hình sự gồm: báo cáo định kỳ; báo cáo về vụ, việc và báo cáo chuyên đề. Báo cáo về điều tra hình sự phải được phân loại, xác định, đóng dấu độ mật đúng quy định và chỉ gửi đến nơi nhận đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung trao đổi tình hình, công tác điều tra hình sự giữa các bộ, ngành phải thực hiện chế độ bảo mật theo quy định của pháp luật. Việc gửi báo cáo theo các phương thức nêu trên phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước; nghiêm cấm việc tiết lộ thông tin, trao đổi, cung cấp thông tin trong báo cáo về điều tra hình sự cho cơ quan, tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm.
Người nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ báo cáo hoặc cố ý báo cáo sai hoặc tiết lộ thông tin trong các báo cáo về điều tra hình sự thuộc phạm vi bí mật nhà nước thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Nghị định có hiệu lực từ 1/1/2018.